Theo ICO, xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 9 đạt 11 triệu bao, giảm 2,8% so với 11,3 triệu bao của cùng kỳ năm ngoái. Kết thúc niên vụ cà phê 2024-2025, xuất khẩu cà phê toàn cầu đạt 138,7 triệu bao, giảm 0,3% so với 139 triệu bao trong niên vụ 2023-2024.
Trong đó, xuất khẩu cà phê nhân xanh đạt tổng cộng 121,3 triệu bao, giảm 0,8% so với niên vụ trước. Riêng trong tháng 9, xuất khẩu cà phê nhân xanh toàn cầu đạt 9,9 triệu bao, giảm 0,2% so với cùng kỳ năm ngoái và là tháng thứ sáu liên tiếp có mức tăng trưởng âm trong niên vụ 2024-2025.
Nguyên nhân chủ yếu là do xuất khẩu nhóm cà phê arabica Brazil đã giảm 7,6% trong niên vụ vừa qua, xuống còn 39,3 triệu bao. Brazil là yếu tố chính dẫn đến sự sụt giảm này, khi lượng xuất khẩu của nước này giảm 11,7%, còn 32,2 triệu bao trong niên vụ 2024-2025.
Đà giảm mạnh của Brazil dường như liên quan đến tính chu kỳ trong sản xuất cà phê arabica của nước này và hiệu ứng mức nền so sánh cao của cùng kỳ năm trước. Niên vụ 2023-2024 là năm “được mùa” đối với xuất khẩu arabica của Brazil, khi sản lượng tăng 21,7%, đạt mức cao kỷ lục.
Sự suy giảm từ Brazil được bù đắp phần nào bởi sự gia tăng mạnh mẽ của Ethiopia, quốc gia ghi nhận khối lượng xuất khẩu arabica tăng 24,4%, đạt 4,9 triệu bao trong niên vụ 2024-2025 — tức tăng ròng 0,96 triệu bao so với vụ trước.
Kết quả tăng trưởng hai con số của Ethiopia trong niên vụ 2024-2025 đến từ sản lượng nội địa tăng 11,2%, đạt 9,9 triệu bao, cùng với khối lượng tồn kho được tung ra thị trường cao hơn bình thường, được thúc đẩy bởi giá cà phê arabica Brazil tăng mạnh, đạt trung bình 361,6 US cent/pound trong niên vụ 2024-2025, tăng 58,9% so với năm trước.
Xuất khẩu cà phê nhân xanh toàn cầu trong niên vụ 2024-2025 (Tháng 10/2024 đến tháng 9/2025)
Nguồn: ICO
Với nhóm cà phê nhân xanh robusta, xuất khẩu đạt 44,3 triệu bao trong niên vụ 2024-2025, tương đương niên vụ 2023-2024. Tuy nhiên, xuất khẩu robusta giữa các quốc gia sản xuất hàng đầu đã chứng kiến sự biến động mạnh trong niên vụ vừa qua.
Theo đó, xuất khẩu cà phê robusta của Brazil đã giảm 47,8%, xuống còn 4,9 triệu bao so với 9,4 triệu bao của niên vụ trước. Mức giảm mạnh hai con số này đã được dự báo trước, bởi khối lượng xuất khẩu năm ngoái của Brazil là mức cao kỷ lục, gần gấp ba lần mức trung bình của 5 niên vụ trước đó (2018-2019–2022-2023) — phản ánh sự thiếu hụt nguồn cung robusta toàn cầu do mất mùa nghiêm trọng ở các quốc gia sản xuất robusta hàng đầu khác.
Trong niên vụ 2023-2024, xuất khẩu robusta của Indonesia và Việt Nam lần lượt giảm 37% và 15,7%, tương đương mức giảm ròng 5,3 triệu bao. Những sự sụt giảm mạnh này chủ yếu đến từ sản lượng robusta của hai nước giảm lần lượt 23,7% và 12,8%, tương ứng mức giảm ròng 6,1 triệu bao.
Tuy nhiên, trong niên vụ 2024-2025, tổng sản lượng robusta của Indonesia và Việt Nam đã tăng 11% so với niên vụ trước, tức tăng thêm 3,65 triệu bao; đồng thời xuất khẩu của hai nước tăng mạnh lần lượt 132,6% và 31,3%, mang lại mức tăng ròng 5,4 triệu bao. Sự hồi phục mạnh mẽ của hai nguồn cung châu Á này đã khiến Brazil mất thị phần trên thị trường Robusta toàn cầu.
Trong khi đó, xuất khẩu nhóm cà phê arabica Colombia tăng mạnh 11,5% trong niên vụ 2024-2025, đạt 13,9 triệu bao. Niên vụ vừa qua, nước sản xuất chính của nhóm cà phê này là Colombia ghi nhận xuất khẩu tăng 13%, lên 12,4 triệu bao. Với việc xuất khẩu trung bình 96% sản lượng cà phê, kết quả xuất khẩu gần đây của Colombia phản ánh sự gia tăng mạnh mẽ trong sản xuất, với sản lượng tăng 16,5% lên 14,9 triệu bao trong niên vụ 2024-2025.
Tương tự, khối lượng lượng xuất khẩu của nhóm cà phê arabica khác cũng tăng 2,7% trong niên vụ vừa qua, đạt 23,7 triệu bao. Trong nhóm này, xuất khẩu của Ethiopia, Mexico và Nicaragua tăng ròng tổng cộng 1,6 triệu bao so với niên 2023-2024. Ngược lại, Guatemala, Papua New Guinea và Peru giảm ròng tổng cộng 1,4 triệu bao.
Ở các dạng cà phê khác, xuất khẩu cà phê đã rang sụt giảm mạnh 22,9% trong niên vụ 2024-2025, xuống còn 0,7 triệu bao. Tuy nhiên, xuất khẩu cà phê hòa tan lại tăng 5% trong niên vụ 2024-2025, đạt 16,7 triệu bao.
Kết thúc niên vụ vừa qua, tỷ trọng cà phê nhân xanh giảm xuống còn 87,5% so với 87,9% của niên vụ 2023-2024. Ngược lại với xu hướng của tất cả các loại cà phê khác, tỷ trọng cà phê hòa tan tăng lên 12,1%, so với 11,5% trước đó.
Cơ cấu chủng loại cà phê xuất khẩu toàn cầu trong niên vụ 2024-2025
Nguồn: ICO
Trong niên vụ 2024-2025, xuất khẩu cà phê của Nam Mỹ suy yếu đã kéo giảm xuất khẩu chung toàn cầu, mặc dù các khu vực khác đạt mức tăng trưởng tích cực.
Cụ thể, xuất khẩu cà phê các loại từ khu vực Nam Mỹ chỉ đạt 58,9 triệu bao trong niên vụ 2024-2025, giảm 12,3% so với niên vụ 2023-2024. Nguyên nhân chủ yếu đến từ Brazil, với xuất khẩu giảm 17,9%, còn 41,1 triệu bao, so với 50,1 triệu bao trong niên vụ 2023-2024. Mức sụt giảm mạnh của Brazil xuất phát từ hiệu ứng nền cao, sự thiếu hụt thị trường và chu kỳ sản xuất.
Trong niên vụ 2023-2024, xuất khẩu robusta của Brazil tăng gần 2,4 lần do thiếu hụt nguồn cung robusta toàn cầu từ Indonesia và Việt Nam. Trong khi xuất khẩu arabica tự nhiên của Brazil cũng tăng 20,7%, phản ánh sản lượng arabica tăng 13,8% trong “năm được mùa” của chu kỳ sản xuất hai năm một lần.
Bước sang niên vụ 2024-2025, tình trạng mất cân bằng cung cầu robusta không còn và arabica rơi vào “năm mất mùa” theo chu kỳ sản xuất. Ngoài ra, các vấn đề logistics tại cảng xuất khẩu chính Santos cũng góp phần làm suy giảm thêm xuất khẩu của Brazil – quốc gia sản xuất cà phê lớn nhất Nam Mỹ cũng như thế giới.
Xuất khẩu cà phê của các khu vực trong niên vụ 2024-2025
Nguồn: ICO
Ở chiều ngược lại, trong niên vụ 2024-2025, xuất khẩu cà phê các loại từ khu vực châu Á và châu Đại Dương tăng 9,1%, đạt 44,45 triệu bao so với 40,7 triệu bao của niên vụ 2023-2024.
Mức tăng trưởng này chủ yếu nhờ xuất khẩu của Indonesia và Việt Nam tăng lần lượt 46% và 7,1%, đạt 9,8 triệu bao và 26,9 triệu bao. Sự tăng trưởng của hai nguồn cung này chủ yếu nhờ mùa vụ cải thiện trong niên vụ 2024-2025, đảo ngược tình hình so với niên vụ trước. Sản lượng cà phê của Indonesia và Việt Nam trong niên vụ 2024-2025 ước tính đạt lần lượt 11,3 triệu bao và 29,2 triệu bao, tăng 22,3% và 9%.
Xuất khẩu cà phê từ khu vực châu Phi cũng tăng tới 18,6% trong niên vụ 2024-2025, đạt 19,7 triệu bao.
Ethiopia và Uganda là các động lực chính, với xuất khẩu tăng 27,3% và 29,6%, đạt 7,4 triệu bao và 8,3 triệu bao. Mức tăng hai con số này được lý giải bởi mùa vụ tốt, giá cà phê quốc tế cao, và lượng tồn kho được tung ra thị trường lớn hơn bình thường. Sản lượng thu hoạch niên vụ 2024-2025 của Ethiopia ước tính là 9,9 triệu bao, trong khi của Uganda là 7,05 triệu bao.
Còn tại khu vực Trung Mỹ và Mexico, xuất khẩu cà phê của khu vực tăng 7,7% trong niên vụ 2024-2025, lên mức 15,6 triệu bao. Mexico và Nicaragua là động lực tăng trưởng chính, với xuất khẩu tăng lần lượt 24,8% và 17,1%.
Tổng kết lại, thị phần của Nam Mỹ trong tổng xuất khẩu cà phê toàn cầu đã giảm từ 48,4% trong niên vụ 2023-2024 xuống 42,5% trong niên vụ 2024-2025, nhưng đây vẫn là khu vực xuất khẩu lớn nhất thế giới. Ba khu vực còn lại đều tăng thị phần, trong đó châu Á và châu Đại Dương tăng 2,8 điểm phần trăm, lên 32,1% so với 29,3% của năm trước. Tương tự, châu Phi cũng tăng 2,3 điểm phần trăm trong niên vụ 2024-2025.
Trong giai đoạn 2020-2021–2024-2025, xu hướng tăng thị phần của châu Phi trở nên rõ rệt, với trung bình đạt 11,8%, so với 10% giai đoạn 2010-2011–2019-2020. Trong khi đó, Caribbean, Trung Mỹ và Mexico đi xuống, với thị phần trung bình giảm còn 11,7%, trở thành khu vực xuất khẩu nhỏ nhất.
Giá thép tiếp đà giảm nhẹ, trong khi quặng sắt nhích lên khi thị trường thận trọng với cân đối cung – cầu. Ấn Độ trở thành nước xuất khẩu ròng thép cán trong tháng 10/2025.
Tính đến hết tháng 10, kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã đạt 7,4 tỷ USD – mức kỷ lục mới, tăng 61,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Trên thị trường nội địa, cà phê vụ mới có giá cao hơn gần 8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá dầu thô tiếp đà tăng nhẹ trở lại trong phiên giao dịch sáng ngày thứ Sáu (14/11) vì nhà đầu tư đang cân nhắc giữa lo ngại dư cung toàn cầu và các biện pháp trừng phạt sắp có hiệu lực đối với tập đoàn dầu khí Nga Lukoil.
Giá cà phê hôm nay (14/11) tiếp tục giảm so với ngày hôm qua, nhưng mức giảm đã chậm lại khi các nhà giao dịch chờ đợi thông tin chi tiết về khả năng Mỹ giảm hoặc miễn thuế đối với các sản phẩm không thể trồng trong nước