Khoảng 12h50 hôm nay, giá vàng miếng SJC tại các doanh nghiệp lớn đồng loạt điều chỉnh giảm sau phiên đi ngang hôm qua.
Tại Công ty Vàng bạc Đá quý Sài Gòn (SJC), Tập đoàn Doji, Phú Quý, hệ thống PNJ, Bảo Tín Minh Châu và Mi Hồng, giá cùng hạ 200.000 đồng/lượng ở cả chiều mua và bán. Sau điều chỉnh, giá mua lùi về khoảng 135,1 – 136,8 triệu đồng/lượng; giá bán giảm xuống 137,8 triệu đồng/lượng.
Vàng miếng SJC | Khu vực | Phiên hôm nay 3/10 | Phiên hôm 2/10 | Chênh lệch | |||
Mua vào | Bán ra | Mua vào | Bán ra | Mua vào | Bán ra | ||
Đơn vị tính: Triệu đồng/lượng | Đơn vị tính: Nghìn đồng/lượng | ||||||
Vàng bạc đá quý Sài Gòn | TP HCM | 135,80 | 137,80 | 136,00 | 138,00 | -200 | -200 |
Hệ thống Doji | Hà Nội | 135,80 | 137,80 | 136,00 | 138,00 | -200 | -200 |
TP HCM | 135,80 | 137,80 | 136,00 | 138,00 | -200 | -200 | |
Tập đoàn Phú Quý | Hà Nội | 135,10 | 137,80 | 135,30 | 138,00 | -200 | -200 |
Cửa hàng vàng bạc đá quý Phú Nhuận | TP HCM | 135,80 | 137,80 | 136,00 | 138,00 | -200 | -200 |
Hà Nội | 135,80 | 137,80 | 136,00 | 138,00 | -200 | -200 | |
Bảo Tín Minh Châu | Toàn quốc | 135,80 | 137,80 | 136,00 | 138,00 | -200 | -200 |
Mi Hồng | TP HCM | 136,80 | 137,80 | 137,00 | 138,00 | -200 | -200 |
Vàng miếng tại các hệ thống cửa hàng được khảo sát vào lúc 12h50. (Tổng hợp: Du Y)
Khác với vàng miếng, giá vàng nhẫn trơn trong phiên trưa nay đã bước vào trạng thái ổn định sau chuỗi ngày leo dốc.
Theo đó, Công ty SJC, Tập đoàn Doji, Phú Quý và hệ thống PNJ, giá nhẫn trơn đồng loạt đứng im ở cả chiều mua và bán. Hiện, SJC giữ ở mức 131,5 – 134,2 triệu đồng/lượng; Doji, Phú Quý và PNJ cùng niêm yết khoảng 132 – 135 triệu đồng/lượng.
Riêng hệ thống Bảo Tín Minh Châu tiếp tục điều chỉnh tăng 200.000 đồng/lượng cho mỗi chiều, đưa giá lên mức 132,8 – 135,8 triệu đồng/lượng.
Vàng nhẫn tròn trơn | Phiên hôm nay 3/10 | Phiên hôm 2/10 | Chênh lệch | |||
Mua vào | Bán ra | Mua vào | Bán ra | Mua vào | Bán ra | |
Đơn vị tính: Triệu đồng/lượng | Đơn vị tính: Nghìn đồng/lượng | |||||
Vàng bạc đá quý Sài Gòn | 131,50 | 134,20 | 131,50 | 134,20 | - | - |
Tập đoàn Doji | 132,00 | 135,00 | 132,00 | 135,00 | - | - |
Tập đoàn Phú Quý | 132,00 | 135,00 | 132,00 | 135,00 | - | - |
Vàng bạc đá quý Phú Nhuận | 132,00 | 135,00 | 132,00 | 135,00 | - | - |
Bảo Tín Minh Châu | 132,80 | 135,80 | 132,60 | 135,60 | +200 | +200 |
Vàng nhẫn trơn tại các hệ thống cửa hàng được khảo sát vào lúc 12h50. (Tổng hợp: Du Y)
Ảnh: Du Y.
Diễn biến tương tự nhẫn trơn, giá vàng nữ trang 24K trong trưa nay cũng chững lại sau nhiều phiên tăng mạnh.
Tại Công ty SJC, Tập đoàn Phú Quý, hệ thống PNJ và hệ thống Mi Hồng, vàng nữ trang 24K đều giữ nguyên cho cả hai chiều. Theo đó, SJC niêm yết ở mức 128,7 – 131,7 triệu đồng/lượng; Phú Quý ở 130,7 – 133,7 triệu đồng/lượng; PNJ giữ mức 129,5 – 132 triệu đồng/lượng; Mi Hồng giao dịch 132,8 – 134,3 triệu đồng/lượng.
Trong khi đó, Tập đoàn Doji không đổi ở chiều mua nhưng chiều bán lại giảm 300.000 đồng/lượng, hiện niêm yết ở mức 131,2 – 134,7 triệu đồng/lượng.
Ngược lại, hệ thống cửa hàng Bảo Tín Minh Châu tăng thêm 200.000 đồng/lượng cả hai chiều, đưa giá lên 130,4 – 134,2 triệu đồng/lượng.
Vàng nữ trang 24K | Khu vực | Phiên hôm nay 3/10 | Phiên hôm 2/10 | Chênh lệch | |||
Mua vào | Bán ra | Mua vào | Bán ra | Mua vào | Bán ra | ||
Đơn vị tính: Triệu đồng/lượng | Đơn vị tính: Nghìn đồng/lượng | ||||||
Vàng bạc đá quý Sài Gòn | TP HCM | 128,70 | 131,70 | 128,70 | 131,70 | - | - |
Tập đoàn Doji | Hà Nội | 131,20 | 134,70 | 131,20 | 135,00 | - | -300 |
TP HCM | 131,20 | 134,70 | 131,20 | 135,00 | - | -300 | |
Tập đoàn Phú Quý | Hà Nội | 130,70 | 133,70 | 130,70 | 133,70 | - | - |
Hệ thống PNJ | TP HCM | 129,50 | 132,00 | 129,50 | 132,00 | - | - |
Bảo Tín Minh Châu | Toàn quốc | 130,40 | 134,20 | 130,20 | 134,00 | +200 | +200 |
Mi Hồng | TP HCM | 132,80 | 134,30 | 132,80 | 134,30 | - | - |
Vàng 24K tại các hệ thống cửa hàng được khảo sát vào lúc 12h50. (Tổng hợp: Du Y)
Khác với các phân khúc trên, giá vàng nữ trang 18K giữa phiên trưa nay vẫn tăng mạnh tại một số doanh nghiệp.
Theo ghi nhận, hệ thống PNJ nâng giá mua tới 1 triệu đồng/lượng, lên 91,65 triệu đồng/lượng, trong khi giá bán giữ nguyên ở 99,15 triệu đồng/lượng.
Hệ thống cửa hàng Mi Hồng cũng tăng thêm 500.000 đồng/lượng ở cả hai chiều, giao dịch tại 90 – 93,5 triệu đồng/lượng.
Riêng Công ty SJC vẫn giữ nguyên mức 91,44 – 98,94 triệu đồng/lượng so với hôm qua.
Vàng nữ trang 18K | Khu vực | Phiên hôm nay 3/10 | Phiên hôm 2/10 | Chênh lệch | |||
Mua vào | Bán ra | Mua vào | Bán ra | Mua vào | Bán ra | ||
Đơn vị tính: Triệu đồng/lượng | Đơn vị tính: Nghìn đồng/lượng | ||||||
Vàng bạc đá quý Sài Gòn | TP HCM | 91,44 | 98,94 | 91,44 | 98,94 | - | - |
Hệ thống PNJ | TP HCM | 91,65 | 99,15 | 90,65 | 99,15 | +1.000 | - |
Mi Hồng | TP HCM | 90,00 | 93,50 | 89,50 | 93,00 | +500 | +500 |
Vàng 18K tại các hệ thống cửa hàng được khảo sát vào lúc 12h50. (Tổng hợp: Du Y)
Như vậy, đến giữa phiên trưa 3/10, thị trường vàng trong nước tạm khép lại chuỗi ngày tăng giá liên tục. Vàng miếng SJC quay đầu giảm nhẹ, trong khi vàng nhẫn trơn và nữ trang 24K đã ổn định trở lại, còn nữ trang 18K tiếp tục tăng.
Trên thị trường thế giới, giá vàng giao ngay giảm 0,07% xuống 3.852 USD/ounce theo Kitco, trong khi giá vàng giao tháng 12 tăng 0,30% lên 3.879 USD/ounce, ghi nhận vào lúc 12h50.
Quy đổi theo giá USD của ngân hàng Vietcombank (26.420 đồng), giá vàng thế giới tương đương 122,6 triệu đồng/lượng, thấp hơn 15,2 triệu đồng/lượng so với giá vàng trong nước.
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và Thái Lan tuần này giảm nhẹ, trong đó Thái Lan tiếp tục dao động gần mức thấp nhất trong 9 năm do nguồn cung dồi dào và nhu cầu yếu. Ngược lại, giá gạo Ấn Độ nhích trở lại từ mức thấp nhất ba năm.
Bất ổn chính trị, xung đột quân sự, cạnh tranh chiến lược gia tăng trên toàn cầu, nhiều ngân hàng trung ương và quỹ đầu tư đẩy mạnh mua vào vàng để bổ sung dự trữ ngoại hối là những lý do quan trọng khiến giá vàng tăng.
Theo số liệu của Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), tiêu thụ thép thành phẩm trong tháng 8 ghi nhận giảm so với cùng kỳ năm trước, song lũy kế 8 tháng đầu năm vẫn duy trì tăng trưởng tích cực.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản (VASEP), tháng 9, xuất khẩu thủy sản Việt Nam đạt gần 991 triệu USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ.