Sau hơn 6 năm triển khai, Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu đã giúp hệ thống ngân hàng xử lý được khoảng 443.000 tỷ đồng nợ xấu. Dù vậy, hiệu quả thực thi vẫn bị giới hạn bởi những vướng mắc trong khung pháp lý và sự phối hợp giữa các bên liên quan.
Điều này đặt ra câu hỏi, liệu việc luật hoá Nghị quyết 42 kỳ vọng sẽ khắc phục được những điểm nghẽn đó, tạo nền tảng bền vững hơn cho hoạt động xử lý nợ xấu trong giai đoạn tới hay không?
Ông Lê Hoài Ân, CFA, Chuyên gia nghiên cứu chiến lược ngân hàng
Chia sẻ tại Data Talk | The Catalyst: Tác động NQ42 đến “Sóng” ngành Ngân hàng do Trang TTĐTTH VietnamBiz phát sóng ngày 6/7, ông Lê Hoài Ân, CFA, Chuyên gia nghiên cứu chiến lược ngân hàng, cho biết Nghị quyết 42 về cơ bản là một công cụ để giải quyết những vấn đề ngắn hạn, nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn về tích tụ từ giai đoạn khủng hoảng 2008–2017 đối với ngành ngân hàng.
Tuy nhiên theo ông, cũng vì thế mà nghị quyết 42 gặp một vấn đề rất lớn, đó là bị vênh với nhiều luật hiện hành. Một trong những bất cập nổi bật là quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Trước đây, ngân hàng muốn xử lý tài sản bảo đảm thì phải thông qua toà án, mà quy trình toà xử thì rất lâu.
Đến Nghị quyết 42 mới cho ngân hàng quyền thu giữ nếu trong hợp đồng có quy định cụ thể. Tuy nhiên, điều này lại chưa được luật hóa trong Luật Các tổ chức tín dụng mà đến bây giờ mới bắt đầu đưa vào, nên thực chất nó đang mâu thuẫn với Luật Dân sự và Luật Thi hành án dân sự.
"Điều đó có nghĩa là Nghị quyết 42 không phải không phát huy hiệu quả, mà do bản chất một số quy định trong đó mâu thuẫn một phần với các luật hiện hành", ông Ân nhấn mạnh.
Một vướng mắc khác là trong trường hợp tài sản bảo đảm liên quan đến án hình sự. Nghị quyết 42 có đưa ra cơ chế là nếu tài sản đó không liên quan đến vụ án thì ngân hàng có thể xin lại. Tuy nhiên, cụm từ “không liên quan” lại không được định nghĩa rõ ràng, dẫn đến mỗi cơ quan điều tra có thể hiểu theo cách khác nhau.
Ngoài ra, còn có một vấn đề rất thực tế là sự phối hợp giữa các bên. Ở Việt Nam, trong cùng một vụ việc, có người cho rằng tài sản không liên quan đến vụ án, nhưng người khác lại bảo là có liên quan. Việc xử lý đôi khi lại phụ thuộc vào cơ chế “xin – cho”.
(Nguồn: Wigroup)
Đồng quan điểm cùng chia sẻ tại toạ đàm trên, ông Đỗ Thanh Tùng - Trưởng phòng cao cấp Trung tâm phân tích Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), cho biết có hai nút thắt khiến cho hiệu quả của Nghị quyết 42 chưa thực sự như kỳ vọng.
Thứ nhất là về sự phối hợp giữa ngân hàng với các cơ quan địa phương như Ủy ban nhân dân xã hoặc công an xã, phường. Trong một số trường hợp, theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, việc hỗ trợ xác minh thông tin khách hàng, hay hỗ trợ thu giữ tài sản bảo đảm chưa được thực hiện kịp thời, ảnh hưởng đến quá trình thu giữ và xử lý nợ xấu.
Nút thắt thứ hai theo mình là quan trọng, đó là sự phối hợp mang tính pháp lý giữa Luật Các tổ chức tín dụng – có bao gồm điều khoản về thu giữ tài sản bảo đảm – với các luật khác như Luật Thi hành án hay pháp luật xử lý các vụ án hình sự.
Ông Tùng cho biết tòa án hay cơ quan thi hành án dân sự hiện chưa có hệ thống dữ liệu cho phép các tổ chức tín dụng tra cứu thông tin xem tài sản bảo đảm đó có đang liên quan đến vụ việc, vụ án đang được thụ lý hay không.
Điều này rất quan trọng để xét xem tài sản đó có đủ điều kiện thu giữ hay không, và nếu không có được thông tin chính xác thì thời gian xử lý cũng bị kéo dài, khiến quy định về thu giữ tài sản chưa áp dụng được hiệu quả.
Theo ông Tùng, dẫn một ví dụ khác là tài sản bảo đảm mà đồng thời là vật chứng trong vụ án hình sự, thì hiện vẫn chưa có văn bản pháp lý nào giải thích rõ ràng vật chứng đó có ảnh hưởng như thế nào đến việc xử lý vụ án hay thi hành án hay không.
Nên việc hoàn trả tài sản bảo đảm hiện vẫn phụ thuộc khá nhiều vào quan điểm của cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này khiến ngân hàng cũng bị phụ thuộc khi muốn xử lý tài sản bảo đảm.
Về câu hỏi liệu việc luật hóa sắp tới có thể giải quyết triệt để các vấn đề này hay không, ông Tùng nhận định rằng vẫn cần phải có các văn bản hướng dẫn từ những bộ, ban, ngành liên quan.
Những văn bản hướng dẫn đó cần kết hợp với quy định trong luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng để giúp cho quá trình thu giữ tài sản bảo đảm của các ngân hàng phục vụ xử lý nợ xấu được thực hiện hiệu quả hơn.
Ông Đỗ Thanh Tùng - Trưởng phòng cao cấp Trung tâm phân tích Chứng khoán Rồng Việt (Nguồn: VDSC)
So với Nghị quyết 42 ban đầu, việc luật hóa lần này được giới phân tích nhận định có nhiều điểm khác biệt rõ nét, cả về hiệu lực pháp lý lẫn nội dung và được kỳ vọng sẽ mang lại hiệu quả cao hơn cho các ngân hàng trong thời gian tới.
Theo ông Đỗ Thanh Tùng, trước đây Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu chỉ mang tính thí điểm, có thời hạn và giới hạn phạm vi áp dụng nhất định. Trong khi đó, việc luật hóa các quy định này thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 đã tạo ra một khung pháp lý ổn định, lâu dài, giúp các ngân hàng có cơ sở vững chắc hơn trong xử lý nợ xấu.
Điểm khác biệt thứ hai nằm ở nội dung luật hóa luật đã bổ sung nhiều quy định mới, chẳng hạn như quy định rõ về thu giữ tài sản bảo đảm, quy định về việc hoàn trả lại tài sản bảo đảm nếu đó là tang vật trong vụ án hình sự và cả cơ chế xử lý tài sản đang bị kê biên nhưng đang được sử dụng để đảm bảo cho khoản nợ xấu.
Đáng chú ý nhất là phạm vi áp dụng được mở rộng, theo ông Tùng cho biết nếu như Nghị quyết 42 chỉ áp dụng với các khoản nợ xấu phát sinh trước ngày 15/8/2017 hoặc các khoản vay hình thành trước thời điểm đó và phát sinh nợ xấu trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực, thì nay, sau khi luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu không còn giới hạn.
"Đây chính là điểm khác biệt và cũng là tác động tích cực hơn so với Nghị quyết 42 sau khi được luật hoá", ông Tùng nhấn mạnh.
(Nguồn: VDSC)
Theo đánh giá của vị chuyên gia, để xác định thời điểm tác động của việc luật hóa Nghị quyết 42 bắt đầu phản ánh vào báo cáo tài chính của các ngân hàng, cần xét đến nhiều yếu tố như bối cảnh kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, cũng như thu nhập của người dân và doanh nghiệp.
Trong trường hợp các yếu tố khác không đổi, tác động của việc luật hóa Nghị quyết 42 dự kiến sẽ bắt đầu thể hiện sau khoảng 6–12 tháng kể từ thời điểm luật có hiệu lực.
Để đánh giá rõ ràng hơn hiệu quả chính sách, chuyên gia cho rằng nên theo dõi sát chỉ tiêu “thu nhập khác” trên báo cáo tài chính, bởi đây là khoản mục phản ánh thu hồi từ nợ xấu đã xử lý (nợ ngoại bảng). Nếu chỉ tiêu này tăng mạnh từ quý II đến quý III năm 2026, đó sẽ là một minh chứng rõ ràng cho hiệu quả của việc luật hóa.
Tuy vậy, chuyên gia cũng lưu ý rằng quá trình xử lý nợ xấu không thể diễn ra ngay lập tức, mà thường cần vài tháng để thực hiện các bước thu giữ và xử lý tài sản đảm bảo. Do đó, dù luật có hiệu lực từ ngày 15/10/2025 (tức quý IV/2025), nhưng những tác động rõ rệt nhất nhiều khả năng sẽ bắt đầu từ nửa sau năm 2026.
Về tác động tài chính, chuyên gia Đỗ Thanh Tùng cho biết để đánh giá nhóm ngân hàng nào sẽ được hưởng lợi sau Nghị quyết 42 thì thực sự cũng chỉ ở mức độ tương đối. Bởi vì việc xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm sẽ phụ thuộc vào bản chất của các khoản nợ xấu và đặc tính của tài sản bảo đảm đó là gì.
Theo ông Tùng, đối với các khoản vay bán lẻ cho khách hàng cá nhân, mình nghĩ về mặt lý thuyết thì khả năng xử lý nợ xấu sẽ nhanh hơn so với các khoản vay cho khách hàng doanh nghiệp. Bởi vì các khoản vay cá nhân thường được thế chấp bằng bất động sản - vốn là loại tài sản bảo đảm chiếm tới hơn 70% tổng tài sản bảo đảm trong toàn hệ thống tổ chức tín dụng.
Trong khi đó, tài sản bảo đảm của các khoản vay doanh nghiệp thường đa dạng hơn rất nhiều. Ngoài bất động sản còn có hàng tồn kho, máy móc thiết bị, tài sản cố định, thậm chí là các dự án bất động sản. Những loại tài sản này thường có thanh khoản thấp hơn, điều kiện chuyển nhượng phức tạp hơn (ví dụ như dự án bất động sản phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh...), nên thời gian xử lý cũng dài hơn.
(Nguồn: VDSC)
Vì vậy, theo ông Tùng nhận định nhóm ngân hàng có hàm lượng tín dụng bán lẻ cao sẽ có khả năng xử lý nợ xấu nhanh hơn, từ đó hưởng lợi tương đối hơn so với các ngân hàng chuyên cho vay doanh nghiệp.
Điểm thứ hai là, các khoản vay bán lẻ thường có giá trị nhỏ và phân tán địa lý cao, nên khi chuyển thành nợ xấu, các ngân hàng bán lẻ sẽ phải tiêu tốn khá nhiều nguồn lực nhân sự để theo dõi, xử lý, khởi kiện và thu giữ tài sản ở nhiều địa phương khác nhau.
Khi luật hóa Nghị quyết 42 được thông qua, các quy trình tố tụng được rút ngắn, đồng nghĩa với việc các ngân hàng đó sẽ giảm đáng kể chi phí nguồn lực, giảm bớt gánh nặng trong việc xử lý nhiều vụ việc ở nhiều nơi khác nhau. Từ đó, chi phí xử lý nợ xấu đối với khoản vay bán lẻ sẽ giảm tương đối, góp phần giúp ngân hàng giảm chi phí hoạt động trong quá trình xử lý nợ xấu.
Ở góc độ phân tích của ông Ân, Nghị quyết 42 có thể xem là cơ hội chung cho tất cả ngân hàng. Nhưng nếu muốn biết ngân hàng nào có lợi hơn trong quý này hay 6 tháng tới thì phải nhìn vào cơ cấu nợ xấu, xem nguyên nhân phát sinh nợ là gì và tiến trình xử lý của từng ngân hàng ra sao.
(Nguồn: Wigroup)
Theo ông Ân, xét tài sản bảo đảm là bất động sản có thể thấy các ngân hàng quốc doanh thường có giá trị tài sản thế chấp cao hơn tổng dư nợ. Điều này cho thấy họ ưu tiên nhận bất động sản làm tài sản đảm bảo, tránh động sản vì rủi ro cao. Với lãi suất cho vay thấp, nhóm ngân hàng này có lợi thế chọn lọc khách hàng kỹ lưỡng hơn.
Nếu tính tỷ lệ dư nợ trên giá trị tài sản đảm bảo là bất động sản, nhóm ngân hàng quốc doanh có tỷ lệ thấp, cho thấy tài sản đảm bảo tốt. Đáng chú ý, nhiều khoản nợ xấu tại các ngân hàng như Vietcombank, VietinBank, BIDV đã được xử lý rủi ro và đưa ra ngoại bảng, nhưng vẫn đang theo dõi để thu hồi – giống như một khoản "của để dành". Trong bối cảnh tài sản thế chấp chủ yếu là bất động sản và có chất lượng tốt, vấn đề không nằm ở việc không thể thu hồi, mà là cần thêm thời gian.
Luật hóa Nghị quyết 42 được kỳ vọng sẽ giúp rút ngắn thời gian xử lý, ví dụ từ 1,5 năm xuống còn 1 năm – tương tự như tăng vòng quay hàng tồn kho.
"Về cơ bản, khả năng mất vốn của ngân hàng quốc doanh là rất thấp. Vậy nên, việc luật hóa nghị quyết 42 giúp tăng vòng quay, đặc biệt là với BIDV và VietinBank", ông Ân nhấn mạnh
Trong khi đó, nhóm ngân hàng nhỏ hơn như KienlongBank, Nam A Bank, ABBank,… lại có tỷ lệ dư nợ trên giá trị tài sản đảm bảo bất động sản cao, cho thấy sử dụng nhiều tài sản đảm bảo là động sản (như máy móc, hàng tồn kho...). Việc luật hóa Nghị quyết 42 cũng sẽ hỗ trợ nhất định trong quá trình thu giữ và xử lý loại tài sản này.