Chiều 24/4, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có buổi làm việc với các ngân hàng thương mại (NHTM) và đại diện các bộ ngành liên quan như Bộ Công thương, Bộ Xây dựng, Bộ Khoa học và Công nghệ về gói tín dụng 500.000 tỷ đồng cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và hạ tầng chiến lược.
Bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN. (Ảnh: VGP).
Báo cáo tại cuộc họp, bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN), cho biết đã có 21 ngân hàng đăng ký tham gia gói tín dụng 500.000 tỷ đồng với mục tiêu của gói là hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư hạ tầng và công nghệ số với lãi suất ưu đãi thấp hơn thị trường ít nhất 1%, thời hạn vay tối thiểu hai năm.
Bà Giang cho biết, về mặt định hướng, đây là chính sách vừa hỗ trợ tăng trưởng, vừa tạo động lực cho các lĩnh vực then chốt. Tuy nhiên, khi chuyển từ kế hoạch sang hành động, các ngân hàng lại vấp một số vướng mắc.
Trong đó, phổ biến nhất là cân đối vốn, khi phần lớn nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính ngắn hạn, thì nhu cầu vay cho các dự án hạ tầng thường kéo dài 10 - 20 năm, thậm chí lâu hơn. Do đó, nếu không có cơ chế hỗ trợ đặc biệt, bài toán "huy động ngắn - cho vay dài" sẽ tiếp tục là rào cản.
Phát biểu chỉ đại tại buổi làm việc, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú cho rằng, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo NHNN xây dựng, triển khai gói tín dụng ưu đãi khoảng 500.000 tỷ đồng cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và hạ tầng chiến lược.
"Đây là bài toán khó khăn trong bối cảnh nhiều gói tín dụng ưu đãi đang được triển khai, có chương trình được giải ngân rất tốt nhưng cũng vẫn còn gói tín dụng bị vướng mắc bởi một số yếu tố như không đáp ứng điều kiện vay vốn…", Phó Thống đốc nói.
Đối với gói tín dụng 500.000 tỷ đồng cho doanh nghiệp đầu tư hạ tầng, công nghệ số, theo Phó Thống đốc, các ngân hàng đã cam kết tham gia và có nhiều ưu đãi dành cho các dự án, đơn cử như về lãi suất ưu đãi, về cho vay trung, dài hạn.
Tuy nhiên, trên thực tế, vốn ngân hàng có bản chất là vốn ngắn hạn. Hiện nay, để đáp ứng đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn đang ngày càng giảm dần. Điều này cũng nhằm đáp ứng các chuẩn mực an toàn quốc tế như Basel II, Basel III. Trong khi đó, Luật các tổ chức tín dụng (TCTD) sửa đổi cũng có nhiều quy định liên quan đến đảm bảo an toàn hoạt động của các ngân hàng trong vấn đề cho vay.
"Vì vậy, việc cho vay trung và dài hạn cũng chính là một ưu đãi từ phía ngân hàng. Các ngân hàng cũng có trách nhiệm đồng thuận tham gia gói tín dụng này", Phó Thống đốc nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, những vấn đề khó khăn còn tồn tại trong lĩnh vực hạ tầng giao thông, năng lượng, điện… những dự án trọng điểm khác cũng cần được giải quyết với dự tham gia tích cực của các bộ, ngành.
Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú. (Ảnh: VGP).
Phó Thống đốc Đào Minh Tú khẳng định, ngành ngân hàng đã và đang sẵn sàng triển khai gói tín dụng 500.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú đã thẳng thắn nhìn nhận rằng cơ chế phối hợp giữa các bộ ngành về việc này còn chưa đạt yêu cầu. Bài toán hiện nay không nằm ở quy mô vốn mà nằm ở cơ chế điều phối và xác định mục tiêu ưu tiên.
Đơn cử như việc NHNN rất cần xác định rõ trong ít nhất 5 năm tới, danh mục các dự án ưu tiên đầu tư, tỷ lệ vốn nhà nước và xã hội hóa, cung cấp các đối tượng chính xác, kế hoạch đầu tư rõ ràng, ít nhất là cần có dữ liệu ước tính gần với thực tế, từ đó NHNN cũng như các NHTM mới có thể tính toán cân đối nguồn vốn, bảo đảm gói tín dụng đi đúng hướng (nhưng hiện chưa có).
Theo Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú, cần nhìn nhận rõ là ngân hàng không thể thay thế vai trò điều tiết vốn đầu tư công của Nhà nước. Gói tín dụng này là chính sách hỗ trợ, nhưng nếu thiếu đồng bộ giữa vốn ngân sách và vốn tín dụng, thì hệ quả là cả hệ thống ngân hàng bị đẩy vào thế rủi ro cao. Do đó, cần có phối hợp đồng bộ giữa các bộ ngành chặt chẽ, kịp thời, có trách nhiệm cao để gói tín dụng đi vào thực chất.
Để giảm thiểu rủi ro, bảo đảm vốn đến đúng địa chỉ, đại diện các ngân hàng thương mại cho rằng, khi liên quan đến tín dụng thì quy định phải rất rõ ràng, dự án nào là hạ tầng trọng điểm, thế nào thì được tính là dự án "công nghệ số", có cần xếp loại và định nghĩa cụ thể không?
Theo ông Tô Huy Vũ, Chủ tịch Agribank, nếu không được nới hạn mức tín dụng hoặc hỗ trợ về tái cấp vốn, thì khả năng cho vay các dự án lớn sẽ gặp khó khăn. Bởi lẽ, hiện nay một số khách hàng đã "kịch trần" hạn mức cho vay, dù dự án cấp thiết cũng không thể giải ngân thêm vì vướng quy định.
Bên cạnh đó, cần thiết kế cơ chế tín dụng trung dài hạn phù hợp hơn. Ví dụ, có thể cho phép ngân hàng được trích lập rủi ro linh hoạt hơn đối với các khoản vay hạ tầng, hoặc chấp nhận tỷ lệ an toàn vốn tạm thời thấp hơn. Nếu không, như nhiều lãnh đạo ngân hàng thương mại lo ngại, việc "cố" cho vay dài bằng vốn ngắn sẽ khiến hệ thống đối diện rủi ro thanh khoản.
Đối với lĩnh vực công nghệ số, một trong hai trụ cột chính của gói tín dụng, thì tình hình còn phức tạp hơn. Theo đại diện Cục Công nghệ thông tin (NHNN): Khó khăn không chỉ đến từ đặc thù tài sản đảm bảo (phần mềm, mã nguồn, bằng sáng chế…), mà còn nằm ở việc thẩm định hiệu quả đầu tư.
Nhiều sản phẩm công nghệ có vòng đời ngắn, mới ra đời thì hiện đại nhưng nhanh lạc hậu và khó định giá. Thêm vào đó, hành lang pháp lý về công nghệ mới, như blockchain, AI, tài sản số… vẫn còn mờ nhạt. Vì vậy, nếu không có cơ chế riêng cho các dự án công nghệ cao, thì ngân hàng khó có thể "mạnh tay" giải ngân, dù nhu cầu là rất lớn.