Kết thúc phiên giao dịch 26/2, giá thép thanh kỳ hạn tháng 4 trên Sở Giao dịch Thượng Hải (SHFE) tăng 0,6% (21 nhân dân tệ) lên mức 3292 nhân dân tệ/tấn. Trong khi đó, giá quặng sắt trên Sàn Đại Liên (DCE) giảm 1,03% (8,5 nhân dân tệ) về mức 819 nhân dân tệ/tấn; Sàn Singapore giảm 0,18 USD về mức 105,1 USD/tấn. Giá nguyên liệu quặng sắt và thép thành phẩm tiếp tục chịu áp lực bởi triển vọng xuất khẩu thép của Trung Quốc và căng thẳng thương mại toàn cầu đang có chiều hướng tăng lên.
Giá thép thanh kỳ hạn tháng 4 trên Sàn SHFE. Nguồn: Barchart
Theo dữ liệu của Hiệp hội Thép Thế giới, tháng 1, Trung Quốc ước tính đã sản xuất 81,9 tấn thép thô, giảm 5,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, Ấn Độ sản xuất 13,6 tấn, tăng 6,8%.
Tại Thổ Nhĩ Kỳ, sản lượng thép tăng 7,5% so với tháng 12/2024 lên 3,2 triệu tấn, tuy nhiên, thống kê này giảm 1,4% so với cùng kỳ 2024. Sản lượng gang ghi nhận 763 ngàn tấn, tăng 2,1% so với tháng 12/2024.
Năm 2024, các nhà sản xuất thép Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng sản lượng thép lên 9,4% so với năm 2023, lên 36,89 triệu tấn. Sản xuất gang ở nước này tăng 17,2% so với 2023, đạt 10,19 triệu tấn. Sản lượng thép trung bình hàng tháng lên tới 3,07 triệu tấn so với 2,81 triệu tấn vào năm 2023.
Ngành công nghiệp thép Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng trưởng vào năm ngoái sau hai năm liên tiếp trì trệ. Điều này được tạo điều kiện bởi sự phát triển tích cực của các dự án cơ sở hạ tầng, bao gồm cả sự phục hồi của các khu vực sau trận động đất và tăng trưởng xuất khẩu khi đối mặt với những thay đổi trên thị trường toàn cầu.
Mặc dù có những động lực tích cực, nhưng các thách thức toàn cầu như biến động nhu cầu tiêu thụ và sức cạnh tranh từ các nhà sản xuất châu Á vẫn là mối lo ngại. Tăng trưởng dự kiến sẽ tiếp tục vào năm 2025, được thúc đẩy bởi mức đầu tư của chính phủ, mở rộng thị trường trong khu vực và tích hợp các công nghệ xanh, mặc dù rủi ro của giá cả hàng hóa thấp hơn và sự bất ổn địa chính trị vẫn còn.
Trong nước, các doanh nghiệp thép đồng loạt điều chỉnh giá thép vào cuối tuần trước, mức giảm ghi nhận quanh mức 200đ/kg. Cụ thể, Hòa Phát hạ giá thép CB240 khoảng 210đ/kg xuống mức 13.480đ/kg, trong khi thép CB300 giảm 260đ/kg về mức 13.580đ/kg. Ở các doanh nghiệp khác, giá thép CB240 dao động khoảng 13.360 – 13.800đ/kg, trong khi thép D10 CB300 khoảng 13560 – 13850 đ/kg.
Giá thép ghi nhận tới ngày 27/2/2025. Nguồn: SteelOnline
Mới đây, Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) gửi văn bản tới Bộ Công Thương đề nghị giải quyết sớm vụ việc phòng vệ thương mại đối với sản phẩm thép mạ (vụ việc AD19).
Trước đó, ngày 14/6/2024, Bộ Công Thương đã khởi xướng điều tra chống bán phá giá đối với thép mạ nhập khẩu từ Trung Quốc và Hàn Quốc (vụ việc AD19). Tuy nhiên, đến nay, vụ việc vẫn chưa có kết quả chính thức.
Trong khi đó, ngày 21/2/2025, Bộ Công Thương đã có quyết định áp thuế chống bán phá giá tạm thời đối với thép cuộn cán nóng nhập khẩu từ Ấn Độ và Trung Quốc (AD20). Vụ việc việc này được khởi xướng từ cuối tháng 7/2024 (tức sau vụ AD19 1 tháng).
Tuy nhiên, VSA cho rằng việc chưa xem xét quyết định chống bán phá giá đối với sản phẩm thép mạ trong khi đã có quyết định tạm thời với thép cuộn cán nóng là nguyên liệu để sản xuất thép mạ đã gây bất lợi trực tiếp cho doanh nghiệp sản xuất mạ, làm tăng giá thành và giảm khả năng cạnh tranh cho ngành thép mạ.
Giá lúa gạo hôm nay (27/2) tại thị trường trong nước giảm nhẹ 100 – 200 đồng/kg so với ngày hôm qua. Trên thị trường thế giới, giá gạo tại các siêu thị ở Nhật Bản đã gần như tăng gấp đôi so với một năm trước do lo ngại về nguồn cung.
Giá sầu riêng hôm nay ổn định tại các vùng được khảo sát, dao động trong khoảng 60.000 - 180.000 đồng/kg. Trong khi đó, giá sầu riêng ở Tiền Giang giảm xuống mức rất thấp vì việc xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc gặp khó.
Trong kỳ điều hành giá chiều ngày 27/2, giá xăng dầu đồng loạt giảm. Trong đó, xăng RON95 giảm hơn 200 đồng/lít. Dầu mazut là mặt hàng duy nhất ghi nhận giá tăng nhẹ.
Xuất khẩu thép HRC trong tháng 1 chỉ đạt 39.381 tấn, giảm mạnh 87,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Tỷ trọng xuất khẩu chỉ chiếm 7%, so với mức 33% của cả năm 2024.