Kết thúc phiên giao dịch 4/4, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5 trên Sàn Singapore giảm 2,6% (2,6 USD) về mức 98 USD/tấn. Trong khi đó, thị trường Trung Quốc nghỉ giao dịch do trùng vào Ngày Tết Thanh Minh.
So với cuối tuần trước, giá quặng sắt trên Sàn Singapore, Đại Liên và giá thép thanh của Sàn Thượng Hải thay đổi tương ứng -4,1%, +0,5%, -0,8%.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5 trên Sàn Singapore. Nguồn: Barchart
Theo các nhà phân tích, nhu cầu quặng sắt ở Trung Quốc dự kiến sẽ vẫn mạnh vào tháng 4, vì mức tiêu thụ thép đã phục hồi. Trong khi đó, lượng quặng sắt từ Australia đã giảm 17% do vào mùa bão là một yếu tố ngăn cản đà giảm sâu của giá quặng sắt.
Trong một diễn biến khác, tại Ấn Độ, ngành công nghiệp thép của nước này đang tăng trưởng mạnh mẽ. Vào năm tài chính 2025, công suất sản xuất thép của nước này đã đạt 205 triệu tấn mỗi năm, tăng 10% so với mức 186 triệu tấn của năm 2024. Trong vòng một thập kỷ qua, con số này gần như đã tăng gấp đôi, từ 109 triệu tấn vào năm 2015. Sự tăng trưởng này phản ánh quá trình phát triển kinh tế, đô thị hóa và đầu tư công mạnh mẽ vào hạ tầng của Ấn Độ, theo ghi nhận từ BigMint.
Cả khu vực công và tư trong ngành thép đều đang mở rộng. Các nhà sản xuất lớn như JSW, Tata Steel và SAIL đã tăng đáng kể công suất để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao. Tổng mức mở rộng công suất trong năm 2025 ước tính đạt 13 triệu tấn, với những cái tên như JSPL và AM/NS India đặt ra các kế hoạch tăng trưởng đầy tham vọng.
Sản xuất thép truyền thống cũng phục hồi mạnh mẽ. Công suất lò cao tăng 17% so với cùng kỳ năm trước, đạt 88,5 triệu tấn; trong khi công suất lò hồ quang điện giữ ổn định ở mức 43 triệu tấn. Nhìn chung, sản lượng thép của Ấn Độ trong năm 2025 đã tăng 6% so với năm trước, đạt 152 triệu tấn.
Tuy nhiên, sự tăng trưởng nhanh chóng của công suất trong nước có thể vượt qua mức tiêu thụ, tạo ra rủi ro về dư cung, giá giảm và biên lợi nhuận thấp cho các nhà sản xuất. Thêm vào đó, triển vọng xuất khẩu cũng bị ảnh hưởng bởi các chính sách thương mại toàn cầu.
Theo GMK Center, sản lượng thép của Ấn Độ đã tăng 5,2% so với cùng kỳ lên 138,21 triệu tấn trong 11 tháng của năm tài chính 2024/2025 (từ tháng 4/2024 đến tháng 2/2025). Sản lượng thép cán tăng 5% so với cùng kỳ, đạt 132,89 triệu tấn; trong khi tiêu thụ nội địa đạt 137,82 triệu tấn, tăng 11,3%. Xuất khẩu các sản phẩm thép thành phẩm giảm 33,7% xuống còn 4,4 triệu tấn, còn nhập khẩu tăng 15,8% lên 8,98 triệu tấn.
Trong nước, giá thép xây dựng tại các doanh nghiệp đi ngang. Cụ thể, giá thép CB240 của Hòa Phát ghi nhận 13.530đ/kg, trong khi thép CB300 bình ổn ở mức 13.580đ/kg. Tương tự, ở doanh nghiệp thép Việt Sing, giá thép CB240 ghi nhận 13.330đ/kg, trong khi thép D10 CB300 báo giá 13.530đ/kg.
Giá thép ghi nhận tới ngày 5/4/2025. Nguồn: SteelOnline
Giá lúa gạo hôm nay (6/11) tại thị trường trong nước và quốc tế không ghi nhận biến động mới. Cơ quan Thống kê Philippines (PSA) cho biết, tính đến ngày 1 tháng 10, tổng lượng gạo dự trữ của nước này đạt 2,35 triệu tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá sầu riêng hôm nay tiếp tục không có nhiều biến động tại các vùng trồng chính, với mức thu mua dao động trong quãng rộng là 25.000 - 105.000 đồng/kg đối với sầu Thái và RI6 tuỳ loại.
Các tập đoàn thương mại lớn của Nhật Bản đang đối mặt với đợt suy giảm kéo dài của giá quặng sắt và than luyện cốc, trong bối cảnh thép Trung Quốc ồ ạt tràn vào thị trường châu Á và các khu vực khác, gây sức ép lên lợi nhuận trong ít nhất 6 tháng tới, theo Bloomberg.
Giá xăng giảm nhẹ trong khi giá dầu tăng hơn 100 đồng/lít, kg.