Khảo sát cho thấy, giá tiêu hôm nay các tỉnh thành sản xuất trọng điểm giao dịch trong khoảng 144.000 – 146.000 đồng/kg, giảm 500 đồng/kg và 2.000 đồng/kg tại hai tỉnh Gia Lai và Đắk Nông, trong khi giữ ổn định tại các địa phương còn lại.
Tính chung trong tuần qua, giá tiêu trong nước đã giảm 500 – 2.500 đồng/kg so với tuần trước.
Cụ thể, Đắk Nông là địa phương có giá giảm mạnh nhất trong tuần, giảm tới 2.500 đồng/kg, xuống còn 144.000 đồng/kg. Đây cũng là mức giá thấp nhất ghi nhận được trên thị trường.
Tiếp theo là giá tiêu tại tỉnh Gia Lai đứng ở mức 144.500 đồng/kg, giảm 1.500 đồng/kg so với tuần trước.
Trong khi đó, một địa phương khác của khu vực Tây Nguyên là tỉnh Đắk Lắk chỉ giảm nhẹ 500 đồng/kg, đứng ở mức cao nhất là 146.000 đồng/kg.
Ở khu vực Đông Nam Bộ, giá tiêu tại các địa phương Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Phước và Đồng Nai giảm từ 1.000 – 2.000 đồng/kg, phổ biến ở mức 145.000 đồng/kg.
Nguyên nhân chính khiến giá sụt giảm đến từ sự bất ổn trong chính sách thuế quan của Mỹ đã ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý thị trường, khiến hoạt động giao dịch và ký kết đơn hàng trở nên thận trọng hơn.
Tỉnh/huyện (khu vực khảo sát) |
Giá thu mua ngày 1/6 (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Thay đổi so với ngày hôm trước (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Thay đổi so với tuần trước (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Đắk Lắk |
146.000 |
- |
-500 |
Gia Lai |
144.500 |
-500 |
-1.500 |
Đắk Nông |
144.000 |
-2.000 |
-2.500 |
Bà Rịa – Vũng Tàu |
145.000 |
- |
-1.000 |
Bình Phước |
145.000 |
- |
-2.000 |
Đồng Nai |
145.000 |
- |
-1.000 |
Trong tuần qua, giá tiêu xuất khẩu của Việt Nam và Indonesia điều chỉnh giảm so với tuần trước, trong khi các quốc gia khác duy trì ổn định.
Dữ liệu của Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) cho thấy, giá tiêu đen xuất khẩu tuần qua của Indonesia giảm nhẹ 5 USD/tấn, đứng ở mức 7.427 USD/tấn.
Tại Việt Nam, giá tiêu đen xuất khẩu loại 500 g/l và 550 g/l cùng giảm 200 USD/tấn so với tuần trước, xuống còn 6.500 – 6.600 USD/tấn.
Giá tiêu tại Malaysia vẫn ổn định ở mức 9.150 USD/tấn, tiêu đen Brazil loại ASTA 570 đạt 6.650 USD/tấn.
Tên loại |
Bảng giá tiêu đen thế giới |
|
Ngày 1/6 (ĐVT: USD/tấn) |
% thay đổi so với tuần trước |
|
Tiêu đen Lampung (Indonesia) |
7.427 |
-0,07 |
Tiêu đen Brazil ASTA 570 |
6.650 |
- |
Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA |
9.150 |
- |
Tiêu đen Việt Nam (500 g/l) |
6.500 |
-2,99 |
Tiêu đen Việt Nam (500 g/l) |
6.600 |
-2,94 |
Cùng thời điểm khảo sát, giá tiêu trắng Muntok Indonesia hiện đang đứng ở mức 10.125 USD/tấn, giảm 9 USD/tấn so với tuần trước.
Trong khi đó, giá tiêu trắng xuất khẩu của Việt Nam giảm 200 USD/tấn và đang được báo giá ở mức 9.500 USD/tấn.
Riêng tiêu trắng Malaysia ASTA đi ngang trong cả tuần qua ở mức 11.850 USD/tấn.
Tên loại |
Bảng giá tiêu trắng thế giới |
|
Ngày 1/6 (ĐVT: USD/tấn) |
% thay đổi so với tuần trước |
|
Tiêu trắng Muntok Indonesia |
10.125 |
-0,09 |
Tiêu trắng Malaysia ASTA |
11.850 |
- |
Tiêu trắng Việt Nam |
9.500 |
-2,06 |
Ông Subramani Ra Mancombu, Trưởng bộ phận Hàng hóa và Kinh doanh Nông nghiệp của tờ The Hindu BusinessLine, cho biết, thông thường, giá hàng hóa sẽ tăng khi sản lượng giảm, nhưng năm nay có thể chứng kiến một bức tranh khác đối với hạt tiêu.
Năm nay, sản lượng hạt tiêu của Ấn Độ dự kiến chỉ đạt khoảng 76.000 tấn, giảm mạnh so với mức 126.000 tấn của năm ngoái. Tuy nhiên, trái với quy luật cung – cầu thông thường, giá hạt tiêu lại đang có xu hướng giảm.
Nguyên nhân chính là do sản lượng hiện tại vẫn vượt nhu cầu tiêu thụ trong nước, ước tính vào khoảng 60.000 tấn. Bên cạnh đó, lượng tồn kho từ năm trước lên tới 50.000 tấn cũng góp phần thu hẹp khoảng cách cung – cầu.
Bên cạnh đó, hạt tiêu giá rẻ nhập khẩu từ Việt Nam và Sri Lanka tiếp tục tràn vào thị trường Ấn Độ, nhờ các hiệp định thương mại tự do với các quốc gia láng giềng Nam Á và khu vực ASEAN.
Trong 11 tháng đầu của năm tài chính 2024–2025, Ấn Độ đã nhập khẩu 24.000 tấn hạt tiêu từ Sri Lanka, tăng đáng kể so với 14.000 tấn trong năm 2023–2024. Tiêu Sri Lanka được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi và Ấn Độ, bao gồm việc miễn thuế trong hạn ngạch 2.500 tấn và chỉ chịu thuế 8% nếu vượt hạn mức.
Nhập khẩu từ Việt Nam cũng đạt hơn 11.000 tấn trong năm 2024, dù chịu mức thuế cao hơn, lên tới 51% theo hiệp định thương mại tự do ASEAN. Ngoài ra, tiêu từ Brazil và Indonesia cũng góp mặt trên thị trường Ấn Độ, nâng tổng lượng tiêu nhập khẩu trong năm 2024 lên 37.000 tấn, cao hơn đôi chút so với 35.000 tấn năm 2023.
Hiện giá tiêu nội địa Ấn Độ đang dao động quanh mức 700 Rupee/kg, giảm 25 Rupee trong tháng vừa qua. Trong khi đó, tiêu nhập khẩu có giá khoảng 675 rupee/kg. Sự chênh lệch không đáng kể này đang kìm hãm đà tăng giá của tiêu nội địa, khiến nông dân không thu được lợi nhuận như kỳ vọng và có thể dẫn đến sự sụt giảm sự quan tâm đối với loại cây trồng này.
Thêm vào đó, vụ thu hoạch tiêu mới của Sri Lanka dự kiến bắt đầu từ tháng 6, có khả năng tạo thêm áp lực lên giá tiêu trên thị trường nội địa Ấn Độ
Mặc dù vậy, chất lượng tiêu Ấn Độ, đặc biệt là loại Malabar Gold, vẫn được đánh giá là tốt nhất trên thị trường toàn cầu. Tuy nhiên, các nguồn cung nhập khẩu sẽ tiếp tục kiềm chế bất kỳ đợt tăng giá mạnh nào trong thời gian tới.
Theo phóng viên TTXVN tại Trung Quốc, lô hàng 22,24 tấn sầu riêng đông lạnh từ Việt Nam vừa được nhập khẩu vào Trung Quốc qua lối thông quan cửa khẩu cầu Bắc Luân II, Đông Hưng (Trung Quốc).
Giá dầu thế giới bật tăng mạnh hơn 3% trong phiên giao dịch đầu tuần, sau khi OPEC+ quyết định giữ nguyên kế hoạch tăng sản lượng ở mức 411.000 thùng/ngày trong tháng 7. Quyết định này phản ánh nỗ lực giành lại thị phần giữa bối cảnh một số thành viên vi phạm hạn ngạch.
Theo dự báo của các chuyên gia, giá heo hơi sẽ có một số điều chỉnh vào ngày mai do thị trường đang tiếp đà đi lên.
Tổng thống Mỹ Donald Trump mới đây tuyên bố tăng thuế thép nhập khẩu từ 25% lên 50%. Tuy nhiên số liệu mới đây cho thấy xuất khẩu thép sang thị trường này đang có xu hướng giảm mạnh và tỷ trọng cũng thu hẹp hơn, nhất là sau cuộc điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp từ năm ngoái.