Theo ghi nhận, giá tiêu sáng nay tại các tỉnh thành sản xuất trọng điểm tiếp tục giữ ổn định ở mức 148.000 – 151.000 đồng/kg. Đây đã là ngày đi ngang thứ 4 liên tiếp tại thị trường trong nước.
Trong đó, Đắk Lắk và Đắk Nông được thu mua ở mức cao nhất là 151.000 đồng/kg. Tiếp đến là Bà Rịa – Vũng Tàu và Đồng Nai đứng ở mức 150.000 đồng/kg, còn Gia Lai và Bình Phước duy trì ở mức thấp hơn với 148.000 đồng/kg.
Thị trường (khu vực khảo sát) |
Giá thu mua ngày 17/9 (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Thay đổi so với ngày hôm trước (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Đắk Lắk |
151.000 |
- |
Gia Lai |
148.000 |
- |
Đắk Nông |
151.000 |
- |
Bà Rịa – Vũng Tàu |
150.000 |
- |
Bình Phước |
148.000 |
- |
Đồng Nai |
150.000 |
- |
Giá tiêu thế giới cũng chủ yếu đi ngang trong phiên giao dịch gần nhất, Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) báo giá tiêu Lampung của Indonesia ở mức 7.101 USD/tấn, tiêu đen Brazil ASTA 570 đạt 6.600 USD/tấn, trong khi têu đen ASTA cao nhất với 9.700 USD/tấn.
Tại Việt Nam, giá tiêu đen xuất khẩu tiếp tục duy trì ổn định ở mức 6.600 – 6.800 USD/tấn đối với loại 500 g/l và 550 g/l.
Tên loại |
Bảng giá tiêu đen thế giới |
|
Ngày 17/9 (ĐVT: USD/tấn) |
% thay đổi so với hôm trước |
|
Tiêu đen Lampung (Indonesia) |
7.101 |
- |
Tiêu đen Brazil ASTA 570 |
6.600 |
- |
Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA |
9.700 |
- |
Tiêu đen Việt Nam (500 g/l) |
6.600 |
- |
Tiêu đen Việt Nam (500 g/l) |
6.800 |
- |
Cùng thời điểm khảo sát, tiêu trắng Muntok của Indonesia đạt 10.062 USD/tấn, không đổi so với ngày hôm trước. Tương tự, giá tiêu trắng Malaysia ASTA vẫn ổn định ở mức 12.900 USD/tấn và tiêu trắng Việt Nam là 9.250 USD/tấn.
Tên loại |
Bảng giá tiêu trắng thế giới |
|
Ngày 17/9 (ĐVT: USD/tấn) |
% thay đổi so với hôm trước |
|
Tiêu trắng Muntok Indonesia |
10.062 |
- |
Tiêu trắng Malaysia ASTA |
12.900 |
- |
Tiêu trắng Việt Nam |
9.250 |
- |
Theo Cambonomist, ông Oknha Chan Sitha, một nông dân trồng tiêu ở tỉnh Kampot - Campuchia, cho biết hiện nay có rất ít người trồng tiêu mới do biến đổi khí hậu và những thách thức thị trường đối với nông dân. Theo chuyên gia này, tiêu hữu cơ hiện đang có nhu cầu cao trên thị trường, trong khi tiêu thường cũng có giá tốt hơn trước.
Còn theo ông Ros Seng Ban, một chủ trang trại trồng tiêu ở tỉnh Kampong Thom, cho biết hiện tại tiêu hữu cơ có thể bán được với giá dao động từ 23.000 đến 28.000 riel/kg, trong khi năm 2024 có thể bán được 32.000 riel/kg. Ông cho rằng mức giá này vẫn còn thấp so với chi phí chăm sóc.
Trong khi đó, ông Mak Ny, Chủ tịch Liên đoàn Hồ tiêu và Gia vị Campuchia, nhận định rằng cho đến nay, có rất ít người mở rộng diện tích trồng tiêu mới, mà chủ yếu tập trung vào việc tăng cường chăm sóc các vườn tiêu hiện có.
Ông cũng cho biết hiện nay, tiêu thường đang được thương lái thu mua với giá từ 23.000 đến 24.000 riel/kg. Vị chuyên gia này cho biết mức giá này có thể giúp nông dân có lãi nếu họ kiểm soát tốt chi phí sản xuất.
Theo chủ tịch Liên đoàn Hồ tiêu và Gia vị Campuchia, sản lượng hồ tiêu bình thường năm 2025 sẽ đạt từ 12.000 - 15.000 tấn, tăng khoảng 30% so với năm 2024.
Diện tích trồng hồ tiêu của Campuchia hiện nay là hơn 6.000 ha, khoảng 80% sản lượng được xuất khẩu sang Việt Nam, phần còn lại được đưa sang các thị trường khác như Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Liên minh châu Âu.
Giá cao su Nhật Bản phục hồi sau 4 phiên giảm, được hỗ trợ bởi thời tiết có mưa lớn tại Thái Lan, gây ra lo ngại gián đoạn nguồn cung cao su thiên nhiên.
Giá thépkỳ hạn tăng nhẹ. Tương tự, quặng sắt phục hồi nhờ sản xuất thép Trung Quốc cải thiện, bất chấp dữ liệu nhà ở ảm đạm.
Giá dầu thô tăng gần 2% trong phiên giao dịch ngày thứ Ba (16/9), khi giới đầu tư lo ngại các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái của Ukraine vào các cảng xuất khẩu và nhà máy lọc dầu của Nga có thể làm gián đoạn nguồn cung.
Giá vàng trong nước tăng nhẹ khi vàng thế giới bứt phá mạnh mẽ và vượt ngưỡng 3.700 USD/ounce vào hôm trước, khi thị trường tin rằng Fed sẽ hạ lãi suất tại cuộc họp tuần này.