Theo ghi nhận, giá tiêu hôm nay tại các tỉnh sản xuất trọng điểm đồng loạt giảm 1.000 đồng/kg so với ngày hôm qua, xuống còn 150.000 – 152.000 đồng/kg.
Như vậy, giá tiêu nội địa đã quay đầu giảm vào cuối tuần, xóa đi toàn bộ mức tăng đạt được trong những ngày đầu tuần.
Tính chung cả tuần, chỉ có Gia Lai giảm 1.000 đồng/kg so với tuần trước, xuống còn 150.000 đồng/kg – mức thấp nhất thị trường.
Ở các địa phương khác, giá nhìn chung không đổi so với tuần trước. Hiện giá tiêu tại Đắk Lắk và Đắk Nông cùng duy trì ở mức 152.000 đồng/kg. Tại khu vực Đông Nam Bộ, gồm Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Phước và Đồng Nai, giá phổ biến cũng ở mức 151.000 đồng/kg.
Thị trường (khu vực khảo sát) |
Giá thu mua ngày 7/9 (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Thay đổi so với ngày hôm trước (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Thay đổi so với tuần trước (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Đắk Lắk |
152.000 |
-1.000 |
- |
Gia Lai |
150.000 |
-1.000 |
-1.000 |
Đắk Nông |
152.000 |
-1.000 |
- |
Bà Rịa – Vũng Tàu |
151.000 |
-1.000 |
- |
Bình Phước |
151.000 |
-1.000 |
- |
Đồng Nai |
151.000 |
-1.000 |
- |
Nguồn: Hoàng Hiệp tổng hợp
Kết thúc tuần qua, Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) niêm yết giá tiêu đen Lampung của Indonesia ở mức 7.086 USD/tấn, giảm 1,8% (130 USD/tấn) so với tuần trước đó.
Trái lại, giá tiêu đen Brazil ASTA 570 tăng vọt 3,13% (200 USD/tấn), lên mức 6.600 USD/tấn.
Tại Malaysia, giá tiêu đen ASTA Malaysia duy trì ổn định ở mức 9.700 USD/tấn. Tương tự, giá tiêu đen xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục đi ngang trong khoảng 6.240 – 6.370 USD/tấn đối với loại 500 g/l và 550 g/l.
Tên loại |
Bảng giá tiêu đen thế giới |
|
Ngày 7/9 (ĐVT: USD/tấn) |
% thay đổi so với tuần trước |
|
Tiêu đen Lampung (Indonesia) |
7.086 |
-1,80 |
Tiêu đen Brazil ASTA 570 |
6.600 |
+3,13 |
Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA |
9.700 |
- |
Tiêu đen Việt Nam (500 g/l) |
6.240 |
- |
Tiêu đen Việt Nam (500 g/l) |
6.370 |
- |
Cùng thời điểm khảo sát, giá tiêu trắng Muntok của Indonesia tăng 0,14% (14 USD/tấn), đạt 10.042 USD/tấn.
Trong khi đó, tiêu trắng xuất khẩu của Việt Nam đi ngang trong cả tuần qua ở mức 9.150 USD/tấn, tiêu trắng Malaysia ASTA đạt 12.900 USD/tấn.
Tên loại |
Bảng giá tiêu trắng thế giới |
|
Ngày 7/9 (ĐVT: USD/tấn) |
% thay đổi so với tuần trước |
|
Tiêu trắng Muntok Indonesia |
10.042 |
+0,14 |
Tiêu trắng Malaysia ASTA |
12.900 |
- |
Tiêu trắng Việt Nam |
9.150 |
- |
Theo thống kê sơ bộ của Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam (VPSA), tháng 8/2025 Việt Nam xuất khẩu được 21.464 tấn hồ tiêu các loại, bao gồm 18.365 tấn tiêu đen và 3.108 tấn tiêu trắng, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 139,8 triệu USD. So với tháng trước lượng xuất khẩu tăng 2,6% và kim ngạch tăng 1,7%, đồng thời so với cùng kỳ năm 2024 lượng xuất khẩu tăng 10,6%, kim ngạch tăng 19,5%.
Giá xuất khẩu bình quân tiêu đen trong tháng 8 đạt 6.335 USD/tấn, tiêu trắng đạt 8.562 USD/tấn, giảm 0,9% đối với tiêu đen và 0,1% đối với tiêu trắng so với tháng trước.
Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu hồ tiêu lớn nhất của Việt Nam trong tháng 8 chiếm 22,4% thị phần xuất khẩu, với khối lượng đạt 4.807 tấn, tăng 40,3% so với tháng 7. Xuất khẩu sang Trung Quốc cũng tăng 36,2% đạt 2.300 tấn. Tiếp theo là các thị trường: UAE: 1.698 tấn, Đức: 881 tấn, Thái Lan: 856 tấn và Hà Lan: 772 tấn.
Về doanh nghiệp xuất khẩu, Olam vươn lên trở thành doanh nghiệp đứng đầu xuất khẩu trong tháng chiếm 10,5% đạt 2.256 tấn, tăng 21,3% so với tháng trước. Tiếp theo là Simexco Đăk Lăk: 1.692 tấn; Phúc Sinh: 1.436 tấn; Nedspice Việt Nam: 1.419 tấn và Haprosimex JSC: 1.278 tấn.
Lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 8/2025, Việt Nam đã xuất khẩu được 166.510 tấn hồ tiêu các loại, trong đó tiêu đen đạt 142.627 tấn, tiêu trắng đạt 23.883 tấn. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1 tỷ 127,8 triệu USD, tiêu đen đạt 930,4 triệu USD, tiêu trắng đạt 193,4 triệu USD.
So với cùng kỳ năm trước lượng xuất khẩu giảm 9,4% tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu tăng 28,0%. Nguyên nhân chủ yếu là do giá xuất khẩu bình quân tiêu đen 8 tháng đạt 6.666 USD/tấn, tiêu trắng đạt 8.732 USD/tấn, tăng lần lượt 41,5% đối với tiêu đen và 38,0% đối với tiêu trắng so với cùng kỳ năm 2024.
Trong đó, Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của hồ tiêu Việt Nam chiếm 21,4% thị phần. Xuất khẩu sang thị trường này dù đã khởi sắc trở lại trong tháng 8 nhưng tính chung 8 tháng đầu năm vẫn giảm 31,1% so với cùng kỳ, đạt 35.697.
Tiếp theo là các thị trường: Trung Quốc đạt 13.282 tấn, tăng 58,3% và chiếm 8%; UAE đạt 12.886 tấn, tăng 9,7% và chiếm 7,7%; Ấn Độ đạt 10.335 tấn, tăng 13,7% và chiếm 6,2%; Đức đạt 8.780 tấn, giảm 27% và chiếm 5,3%.
Tính chung 8 tháng đầu năm, xuất khẩu tiêu của Việt Nam sang hầu hết khu vực đều giảm so với cùng kỳ năm trước, với châu Mỹ giảm 30,6%, châu Âu 19,9% và châu Phi giảm 0,6%. Chỉ có duy nhất khu vực châu Á tăng 13,9%.
Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng đầu trong 8 tháng bao gồm: Olam Việt Nam: 15.504 tấn, giảm 9,2% và chiếm 9,9%; Nedspice Việt Nam: 14.338 tấn, tăng 2,8% và chiếm 8,6%; Phúc Sinh: 13.132 tấn, giảm 20,5% và chiếm 7,9%; Simexco Đăk Lăk và Haprosimex JSC đạt lần lượt 9.509 tấn và 8.793 tấn, giảm 1,7% và 36,3%.
OPEC+ đã đạt được thỏa thuận về nguyên tắc sẽ tiếp tục tăng sản lượng trong tháng tới, theo các đại biểu, khi nhóm này đẩy mạnh chính sách mới tập trung vào giành thị phần thay vì bảo vệ giá dầu.
Giá vàng trong nước đã tăng lên mức kỷ lục 135,4 triệu đồng/lượng, chuyên gia phân tích nguyên nhân, cảnh báo rủi ro đầu cơ và dự báo tác động khi xóa bỏ độc quyền sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu vàng.
Tuần qua, giá vàng thế giới tăng mạnh vì triển vọng Fed sẽ hạ lãi suất vào cuộc họp sắp tới. Điều này kéo giá vàng trong nước lên cao và liên tục phá kỷ lục.
Giá cà phê tuần qua giảm mạnh 9.200 – 9.700 đồng/kg so với tuần trước, xuống chỉ còn 112.000 – 113.300 đồng/kg. Các thương nhân cho biết, hoạt động giao dịch cà phê tại Việt Nam vẫn ảm đạm, với doanh số chậm lại do nguồn cung cạn kiệt vào cuối vụ.