Trong báo cáo về ngành ngân hàng mới công bố, Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cho biết nợ xấu nội bảng từ các khoản cho vay khách hàng của 27 ngân hàng niêm yết tăng hơn 37.000 tỷ đồng trong quý đầu tiên của năm. Quy mô nợ xấu nội bảng vào cuối quý I tăng lên gần 265.000 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ xấu là 2,16%.
VDSC dẫn số liệu từ Hiệp hội Ngân hàng, cho biết nợ xấu nội bảng toàn hệ thống tăng từ 778.000 tỷ đồng cuối năm 2024, tăng xấp xỉ 4,98% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế, lên 833.000 tỷ đồng cuối tháng 2/2025, tương ứng 5,29% (tương đương 5,29% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế). Mức tăng nợ xấu trong hai tháng đầu năm là 55.000 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, ước tính từ thông báo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), nợ xấu tại các tổ chức tín dụng yếu kém (MBV, GPBank, VCBNeo, DongA Bank, SCB) ước tính khoảng 537.000 tỷ đồng, chiếm 65% nợ xấu nội bảng của hệ thống và tập trung chủ yếu tại ngân hàng SCB.
Cũng theo báo cáo của NHNN, 5 ngân hàng yếu kém là MBV, GPBank, VCBNeo, DongA Bank và SCB có tỷ lệ nợ xấu lần lượt là 7,18%; 15,87%; 43,76%; 46, 1% và 98,5%. Nợ xấu của các TCTD (không bao gồm các TCTD yếu kém) ước đạt 295.000 tỷ đồng.
Theo VDSC, kết thúc quý I, nợ nhóm 2 của các ngân hàng tăng nhẹ 7.000 tỷ đồng, chấm dứt xu hướng giảm trong ba quý trước đó.
Các chuyên gia VDSC giả định, nếu phần lớn nợ xấu phát sinh trong quý I bắt nguồn từ việc chuyển nhóm từ nợ nhóm 2, quy mô nợ nhóm 2 phát sinh thêm trong kỳ ước tính cũng có thể ở mức cao hơn 70.000 tỷ đồng, tương đương 0,6% quy mô nợ nhóm 1 cuối năm trước.
Với diễn biến này, rủi ro nợ xấu tiếp tục tăng mạnh trong quý tiếp theo là khá cao, nếu như các khoản nợ nhóm 2 này không được xử lý kịp thời.
Nợ xấu tiềm ẩn cao khoảng 193.000 tỷ đồng (gồm nợ VAMC, nợ tiềm ẩn rủi ro, và nợ cơ cấu lại theo Thông tư 02) cùng dư nợ của các khách hàng có khả năng bị ảnh hưởng bởi chính sách thuế quan đối ứng cũng sẽ khiến cho xu hướng tăng của nợ xấu chưa thể sớm dừng lại.
Liên quan đến vấn về này, trước đó các chuyên gia chứng khoán Tiền Phong (TPS) cảnh báo rủi ro nợ xấu tiềm ẩn vẫn hiện diện, đặc biệt khi các ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt hiện chiếm gần 5% quy mô GDP. Trong khi đó, bộ đệm dự phòng rủi ro của ngành đã mỏng dần, hiện trở về mức tương đương trước đại dịch COVID-19.
Trong đó, các chuyên gia TPS đánh giá các ngân hàng thương mại tư nhân quy mô nhỏ với bộ đệm vốn yếu hơn sẽ phải đối mặt với áp lực chi phí dự phòng cao trong năm nay.
Đáng chú ý, rủi ro nợ xấu cũng gắn liền với diễn biến của thị trường bất động sản. Theo TPS, nếu thị trường bất động sản hồi phục trong nửa cuối năm 2025 như kỳ vọng, điều này có thể góp phần cải thiện bức tranh nợ xấu và tăng cường bộ đệm vốn cho toàn hệ thống ngân hàng.
Đồng quan điểm, các chuyên gia VIS Rating cũng kỳ vọng chất lượng tài sản ngành ngân hàng có thể cải thiện trong thời gian tới, nhờ thị trường bất động sản dần phục hồi và các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp từ Chính phủ phát huy hiệu quả.
Nhóm phân tích VIS Rating dự báo tỷ lệ nợ có vấn đề sẽ giảm khi khả năng trả nợ của khách hàng cải thiện nhờ các yếu tố như đầu tư công, FDI ổn định, thặng dư thương mại và các nỗ lực cải cách pháp lý sẽ thúc đẩy kinh doanh trong nước và cải thiện dòng tiền của doanh nghiệp.
"Tỷ lệ nợ có vấn đề toàn ngành sẽ giảm xuống 2,2% trong năm 2025 và được dẫn dắt bởi SOBs và một vài ngân hàng lớn có hoạt động cho vay thận trọng và ít cho vay các nhà phát triển bất động sản gặp khó khăn", báo cáo nêu rõ.
Tuy nhiên, ngược lại một số ngân hàng nhỏ và vừa vẫn gặp khó khăn với các khoản vay nhà ở gắn với dự án đầu cơ. Trong thời gian tới, rủi ro quản trị vẫn ảnh hưởng đến chất lượng tài sản của ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng có liên kết chặt chẽ với các tập đoàn lớn trong lĩnh vực bất động sản.