Vĩ Mô 17/09/2025 15:15

Để xuất khẩu đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng: Cần giảm nhập siêu dịch vụ, gia tăng tỷ lệ nội địa hoá

Theo TS. Lê Duy Bình, về lâu dài cần giảm nhập siêu dịch vụ, đặc biệt là trong các lĩnh vực logistics, vận tải, bảo hiểm hàng hóa. Đồng thời, cần tăng tỷ lệ nội địa hóa bằng cách phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng cao năng lực cung ứng của doanh nghiệp trong nước.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức như lạm phát kéo dài, xung đột địa chính trị và biến động chuỗi cung ứng, Việt Nam vẫn duy trì được đà tăng trưởng tích cực trong hoạt động xuất, nhập khẩu. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế trong khu vực xuất nhập khẩu khiến hiệu quả đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chưa được như kỳ vọng.

Theo Cục Thống kê, Bộ Tài chính, trong 8 tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 305,96 tỷ USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 76,69 tỷ USD, tăng 3,2%, chiếm 25,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 229,27 tỷ USD, tăng 19,3%, chiếm 74,9%. 

 

Về thị trường, Mỹ tiếp tục là đối tác xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 99,1 tỷ USD, chiếm hơn 32,0% tổng kim ngạch xuất khẩu. EU và Trung Quốc lần lượt đứng thứ hai và thứ ba, cho thấy sự ổn định của nước ta trong quan hệ thương mại với các thị trường truyền thống. Đặc biệt, Việt Nam xuất siêu lớn sang Mỹ (87 tỷ USD) và EU (25,6 tỷ USD), góp phần cân bằng cán cân thương mại và giảm áp lực từ nhập siêu.

Ngành nông nghiệp ghi nhận nhiều kết quả tích cực. Kim ngạch xuất khẩu 8 tháng năm 2025 của nhiều mặt hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Thủy sản đạt 7,2 tỷ USD, tăng 13,5%; cà phê đạt 6,5 tỷ USD, tăng 61,1%; rau quả đạt 4,8 tỷ USD, tăng 2,0%; hạt điều đạt 3,3 tỷ USD, tăng 17,9%. 

Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu tích cực, hoạt động xuất, nhập khẩu vẫn tồn tại một số hạn chế đáng lưu ý. Việt Nam tiếp tục nhập siêu lớn từ Trung Quốc (75,9 tỷ USD) và Hàn Quốc (20,1 tỷ USD), phản ánh sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu đầu vào từ nước ngoài. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về phát triển công nghiệp hỗ trợ trong nước để giảm thiểu rủi ro từ bên ngoài.

Mức xuất siêu tuy vẫn duy trì nhưng đã giảm đáng kể so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu là do nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu, đặc biệt là nhóm hàng máy móc, thiết bị và nguyên liệu phục vụ sản xuất. Đây là tín hiệu tích cực cho thấy sản xuất trong nước ngày càng phục hồi sau đại dịch COVID-19, nhưng cũng đặt ra thách thức trong việc kiểm soát cán cân thương mại.

Ngoài ra, các hàng rào kỹ thuật từ các thị trường lớn như EU và Mỹ ngày càng siết chặt, gây khó khăn cho một số mặt hàng nông sản. Việc đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư lớn vào công nghệ và quy trình sản xuất. Không ít lô hàng bị trả về hoặc kiểm tra gắt gao, ảnh hưởng đến tiến độ xuất khẩu và uy tín thương hiệu.

Biến động tỷ giá và chi phí logistics cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp. Tỷ giá USD tăng khiến chi phí nhập khẩu nguyên liệu tăng theo, trong khi giá cước vận tải biển chưa ổn định, đặc biệt là các tuyến đi châu Âu và Bắc Mỹ. Điều này làm giảm biên lợi nhuận của doanh nghiệp xuất khẩu, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Xuất khẩu vẫn phụ thuộc nhiều vào FDI

TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Vietnam. (Ảnh: NVCC).

 

Tham luận tại chuyên đề 3 về "Vươn tầm thế giới", Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam (VPSF) 2025 diễn ra mới đây, TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Vietnam, cho rằng xuất nhập khẩu từ lâu đã tạo động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Nếu như năm 2019, xuất khẩu đóng góp 14% vào GDP, thì đến năm 2024 con số này đã lên đến 19%.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2024 đạt 786,1 tỷ USD, với mức xuất siêu 23,8 tỷ USD. Riêng kim ngạch xuất khẩu đạt 404,9 tỷ USD, đưa Việt Nam tiếp tục nằm trong nhóm các quốc gia có độ mở thương mại lớn trên thế giới.

Tuy nhiên, nếu nhìn sâu vào cấu trúc xuất khẩu, có thể thấy một số hạn chế lớn, TS. Bình chỉ ra. Trong đó, tăng trưởng chủ yếu dựa vào mở rộng kim ngạch, trong khi giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa còn thấp.

 

Kim ngạch xuất khẩu của khối FDI so với tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. (Nguồn: Cục Thống kê).

 

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2015–2024, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam có biến động, tăng trưởng xuất khẩu đạt mức cao vào năm 2017 (22%), 2021 (19,3%) và 2022 (18,5%), nhưng cũng sụt giảm vào năm 2023 với mức tăng trưởng âm (-4,6%).

Thực tế này đặt ra yêu cầu phải thay đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu: không thể tiếp tục chỉ dựa vào việc mở rộng kim ngạch để đóng góp cho GDP, mà cần chuyển trọng tâm sang nâng cao chất lượng.

Điều đó bao gồm việc gia tăng giá trị gia tăng của sản phẩm, đẩy mạnh tỷ lệ nội địa hóa, phát triển công nghiệp hỗ trợ và chuỗi cung ứng trong nước, đồng thời chú trọng yếu tố bền vững, tiêu chuẩn môi trường và xã hội. Đây mới là con đường giúp xuất khẩu trở thành động lực dài hạn và thực chất cho tăng trưởng kinh tế, thay vì phụ thuộc vào những biến động ngắn hạn của thị trường toàn cầu. 

Một trong những hạn chế lớn hiện nay là giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu còn thấp do công nghiệp nội địa trong ngành chế biến chế tạo phát triển chưa tương xứng. Các doanh nghiệp, kể cả trong nước và khu vực FDI, vẫn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên vật liệu, sản phẩm trung gian và máy móc thiết bị.

Toàn bộ giá trị xuất khẩu điện thoại và linh kiện thuộc về khu vực FDI, trong khi tới 89% giá trị linh kiện đầu vào phải nhập khẩu. Ngành dệt may chỉ đạt tỷ lệ nội địa hóa 45–50%, đồng nghĩa hơn một nửa nguyên phụ liệu, đặc biệt là vải và sợi, vẫn phải nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và các quốc gia khác.

Sự phụ thuộc này làm giảm khả năng chủ động của doanh nghiệp, giảm hiệu quả lan tỏa của xuất khẩu đối với nền kinh tế trong nước, hạn chế sự phát triển công nghiệp hỗ trợ. 

Cụ thể, trong giai đoạn 2018–2024, khu vực doanh nghiệp FDI luôn chiếm tỷ trọng trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Riêng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu của khu vực này (kể cả dầu thô) ước đạt gần 290,9 tỷ USD, chiếm 71,7% tổng giá trị xuất khẩu cả nước.

"Rõ ràng xuất khẩu của Việt Nam hiện vẫn phụ thuộc rất lớn vào các tập đoàn và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi vai trò đóng góp của doanh nghiệp trong nước còn tương đối khiêm tốn", ông Bình nhận định.

Sự áp đảo của khu vực FDI tuy giúp duy trì tốc độ tăng trưởng và mang lại thặng dư thương mại, nhưng đồng thời đặt ra thách thức về tính bền vững, khả năng lan tỏa công nghệ, và mức độ tham gia của doanh nghiệp Việt vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Do đó, một yêu cầu cấp bách là cần nâng cao vai trò của doanh nghiệp trong nước trong hoạt động xuất khẩu, nhằm bảo đảm sự cân bằng, chủ động và gia tăng giá trị thực chất cho nền kinh tế.

Kim ngạch xuất, nhập khẩu dịch vụ 2015-2024 (Triệu USD). (Nguồn: Cục Thống kê).

Tăng tỷ lệ nội địa hoá, giảm nhập siêu dịch vụ

Trong bối cảnh đó, TS. Bình cho rằng, muốn tăng trưởng bền vững, yêu cầu đặt ra là cần một mô hình tăng trưởng xuất khẩu mới, thay đổi cách thức tiếp cận thị trường, đòi hỏi tư duy mới của các cơ quan quản lý và vai trò tiên phong của doanh nghiệp.

Trọng tâm của mô hình này không phải chỉ là mở rộng quy mô, mà là nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và tính tự chủ của xuất khẩu.

Trong đó, thứ nhất, doanh nghiệp cần tăng tỷ lệ nội địa hóa bằng cách phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng cao năng lực cung ứng của doanh nghiệp trong nước. Đây là cách để giữ lại nhiều hơn giá trị sản xuất trong nền kinh tế, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu trung gian.

Thứ hai, chú trọng phát triển thương hiệu sản phẩm. Thương hiệu không chỉ là công cụ tiếp thị mà còn là tài sản chiến lược, quyết định khả năng cạnh tranh bền vững. Doanh nghiệp Việt cần chuyển từ chiến lược “gia công, sản xuất thuê” sang chiến lược “sáng tạo, sở hữu và làm chủ thương hiệu”.

Thứ ba, đầu tư mạnh vào đổi mới công nghệ, nâng cao tiêu chuẩn chất lượng, đáp ứng các yêu cầu khắt khe về môi trường, lao động và truy xuất nguồn gốc từ các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản. Đây là yếu tố sống còn trong bối cảnh các cam kết về phát triển xanh và kinh tế tuần hoàn ngày càng được nhấn mạnh.

Thứ tư, giảm nhập siêu dịch vụ, đặc biệt là trong các lĩnh vực logistics, vận tải, bảo hiểm hàng hóa. Việc phát triển các doanh nghiệp dịch vụ trong nước có năng lực cạnh tranh quốc tế sẽ giúp Việt Nam giữ lại nguồn ngoại tệ đáng kể và tạo thêm động lực tăng trưởng.

Ông nhấn mạnh, trong giai đoạn tới, doanh nghiệp Việt Nam cần đóng vai trò tiên phong trong thay đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu. Sự tiên phong không chỉ thể hiện ở việc tìm kiếm thị trường mới, mà còn ở tư duy mới.

"Cần coi trọng giá trị thay vì số lượng, coi trọng thương hiệu thay vì chỉ dựa vào lợi thế chi phí thấp. Chỉ khi đó, xuất khẩu mới thực sự trở thành động lực tăng trưởng bền vững, đóng góp vào mục tiêu nâng cao vị thế quốc gia và hội nhập quốc tế sâu rộng", TS. Bình nhìn nhận.

Hạ An
CÙNG CHUYÊN MỤC
Vĩ Mô 17/09/2025 16:04
UOB nâng dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam 2025 từ 6,9% lên 7,5%

UOB dự báo, tăng trưởng quý III/2025 dự kiến đạt 7,6% so với cùng kỳ và quý IV/2025 đạt 7,2%, nhờ đó, cả năm 2025 Việt Nam sẽ tăng trưởng 7,5%.

Vĩ Mô 17/09/2025 15:23
Thủ tướng yêu cầu giải ngân vốn đầu tư công 100%, không để 'có tiền mà không tiêu được'

Trước tính trạng gần 38.400 tỷ đồng vốn đầu tư công vẫn chưa được các bộ, cơ quan trung ương và địa phương phân bổ hết, tính đến cuối tháng 8, Thủ tướng yêu cầu người đứng đầu các đơn vị không để tình trạng trì trệ, "có tiền mà không tiêu được".

Vĩ Mô 17/09/2025 14:04
Xếp thứ 4 cả nước về tổng thu ngân sách, kinh tế Hưng Yên đang phát triển ra sao?

Tận dụng những tiềm năng sau sáp nhập, kinh tế Hưng Yên đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. 8 tháng đầu năm, tỉnh đã ghi nhận những kết quả ấn tượng như: chỉ số sản xuất công nghiệp tăng hai con số, thu hút 1,6 tỷ USD vốn FDI, thu ngân sách thuộc top đầu cả nước...

Vĩ Mô 17/09/2025 14:02
Thanh Hoá có hai Phó Bí thư Tỉnh uỷ mới

Bộ Chính trị, Ban Bí thư vừa có quyết định điều động, phân công, chỉ định ông Nguyễn Hồng Phong, Cục trưởng Cục An ninh nội địa Bộ Công an, giữ chức Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ Thanh Hóa và ông Nguyễn Hoài Anh, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ Lâm Đồng, giữ chức Phó Bí thư Tỉnh uỷ Thanh Hóa nhiệm kỳ 2020 - 2025.