Theo khảo sát, giá phân bón hôm nay (31/10) không ghi nhận điều chỉnh mới tại khu vực miền Trung
Cụ thể, phân NPK 20 - 20 - 15 Đầu Trâu, Song Gianh có giá bán lần lượt là 950.000 - 980.000 đồng/bao và 910.000 - 930.000 đồng/bao.
Bên cạnh đó, phân urê vẫn nằm trong khoảng 610.000 - 650.000 đồng/bao, giữ nguyên so với ngày hôm trước.
| Đơn vị tính: đồng/bao | |||
| MIỀN TRUNG | |||
| Tên loại | Ngày 29/10 | Ngày 31/10 | Thay đổi | 
| Phân URÊ | |||
| Phú Mỹ | 620.000 - 650.000 | 620.000 - 650.000 | - | 
| Ninh Bình | 610.000 - 640.000 | 610.000 - 640.000 | - | 
| Phân NPK 20 - 20 - 15 | |||
| Đầu Trâu | 950.000 - 980.000 | 950.000 - 980.000 | - | 
| Song Gianh | 910.000 - 930.000 | 910.000 - 930.000 | - | 
| Phân KALI bột | |||
| Phú Mỹ | 520.000 - 560.000 | 520.000 - 560.000 | - | 
| Hà Anh | 520.000 - 560.000 | 520.000 - 560.000 | - | 
| Phân NPK 16 - 16 - 8 | |||
| Đầu Trâu | 720.000 - 740.000 | 720.000 - 740.000 | - | 
| Phú Mỹ | 710.000 - 730.000 | 710.000 - 730.000 | - | 
| Lào Cai | 700.000 - 720.000 | 700.000 - 720.000 | - | 
| Phân Lân | |||
| Lâm Thao | 280.000 - 300.000 | 280.000 - 300.000 | - | 
| Lào Cai | 270.000 - 290.000 | 270.000 - 290.000 | - | 
Số liệu: 2nong.vn
Cũng theo ghi nhận, thị trường phân bón tại khu vực Tây Nam Bộ lặng sóng.
Theo đó, phân kali miểng Cà Mau cũng không có sự thay đổi mới, tiếp tục được bán với giá khoảng 500.000 - 530.000 đồng/bao.
Cùng lúc, 870.000 - 900.000 đồng/bao là mức giá niêm yết đối với phân NPK 20 - 20 - 15.
| Đơn vị tính: đồng/bao | |||
| TÂY NAM BỘ | |||
| Tên loại | Ngày 29/10 | Ngày 31/10 | Thay đổi | 
| Phân URÊ | |||
| Cà Mau | 620.000 - 640.000 | 620.000 - 640.000 | - | 
| Phú Mỹ | 610.000 - 630.000 | 610.000 - 630.000 | - | 
| Phân DAP | |||
| Hồng Hà | 1.250.000 - 1.300.000 | 1.250.000 - 1.300.000 | - | 
| Đình Vũ | 840.000 - 870.000 | 840.000 - 870.000 | - | 
| Phân KALI Miểng | |||
| Cà Mau | 500.000 - 530.000 | 500.000 - 530.000 | - | 
| Phân NPK 16 - 16 - 8 | |||
| Cà Mau | 600.000 - 640.000 | 600.000 - 640.000 | - | 
| Phú Mỹ | 600.000 - 640.000 | 600.000 - 640.000 | - | 
| Việt Nhật | 610.000 - 650.000 | 610.000 - 650.000 | - | 
| Phân NPK 20 - 20 - 15 | |||
| Ba con cò | 870.000 - 900.000 | 870.000 - 900.000 | - | 
Số liệu: 2nong.vn
 
Nguồn: Wichart
Theo Oil Price, các nhà nhập khẩu năng lượng châu Á đang kiềm chế nhu cầu than nhiệt điện khi giá tăng trở lại sau khi giảm xuống mức thấp nhất trong bốn năm vào đầu năm 2025.
Phóng viên Clyde Russell của Reuters hôm nay đưa tin lượng than nhập khẩu vào Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc trong tháng 10 đều sẽ thấp hơn so với tháng 9 do biến động giá. Kể từ tháng 6, khi giá than nhiệt giảm xuống mức thấp nhất trong bốn năm, giá than Úc đã tăng 16%, trong khi giá than Indonesia chỉ tăng nhẹ 12%.
Sự phục hồi giá được thúc đẩy bởi lượng than nhập khẩu từ Trung Quốc tăng cao trong mùa hè. Sau nhiều tháng giảm nhập khẩu than vào đầu năm nay, với lượng than nhập khẩu trong tháng 7 giảm 23% so với cùng kỳ năm trước, lượng than nhập khẩu của Trung Quốc đã tăng mạnh vào tháng 8 và duy trì ở mức cao trong tháng 9.
Nhu cầu giảm trong bối cảnh khủng hoảng bất động sản và tăng trưởng công nghiệp yếu kém, cùng với sản lượng nội địa tăng, đã gây áp lực lên nhập khẩu than của Trung Quốc trong nửa đầu năm. Trong nửa cuối năm, tăng trưởng công nghiệp đã phục hồi, thúc đẩy nhu cầu năng lượng tăng cao.
Theo công ty nghiên cứu DBX Commodities, lượng than nhập khẩu của Trung Quốc trong tháng này đạt 28,17 triệu tấn. Con số này sẽ giảm so với mức 28,43 triệu tấn của tháng 9 và 33,53 triệu tấn của tháng 10 năm 2024.Ấn Độ dự kiến sẽ nhập khẩu 13,35 triệu tấn than nhiệt trong tháng này, giảm so với mức 13,76 triệu tấn của tháng 9 và mức 13,82 triệu tấn của tháng 10 năm 2024.
Nhật Bản dự kiến sẽ ghi nhận mức giảm rõ rệt hơn về lượng than nhập khẩu trong tháng này, từ 10,44 triệu tấn trong tháng 9 xuống còn 9,52 triệu tấn. Một năm trước, tổng lượng than nhập khẩu của Nhật Bản trong tháng 10 là 9,94 triệu tấn.
Hàn Quốc cũng đang cắt giảm đáng kể lượng than nhiệt nhập khẩu, với lượng than nhập khẩu trong tháng 10 dự kiến đạt 6,45 triệu tấn, giảm so với mức 8,19 triệu tấn của tháng 9. Tuy nhiên, xét trên bình quân hàng năm, lượng than nhập khẩu của Hàn Quốc trong tháng 10 này sẽ cao hơn, so với mức 5,92 triệu tấn của năm ngoái.
 
Ảnh: Gia Ngọc
 
            
            Các nhà máy thép Trung Quốc đang đối mặt với sức ép trở lại sau giai đoạn lợi nhuận phục hồi ngắn ngủi, khi chi phí nguyên liệu đầu vào tăng cao. Điều này đe dọa xói mòn lợi nhuận trong thời gian tới dù kết quả kinh doanh quý III vừa qua có cải thiện, theo Bloomberg.
 
            
            Giá lúa gạo hôm nay (31/10) tại thị trường trong nước không ghi nhận biến động mới so với ngày hôm trước. Tuy nhiên, giá gạo thơm 5% tấm xuất khẩu giảm xuống mức thấp nhất 2 tháng trong tuần qua do nhu cầu yếu và chất lượng vụ mùa kém.
 
            
            Chiều 31/10, thị trường vàng trong nước bất ngờ phục hồi mạnh mẽ trên diện rộng sau phiên giảm sâu trước đó. Giá vàng miếng, nhẫn trơn và nữ trang đồng loạt tăng từ 700.000 đến 2,7 triệu đồng/lượng, trong đó vàng nhẫn dẫn đầu thị trường, vọt lên mức cao nhất 149,2 triệu đồng/lượng.
 
            
            Sau việc sầu riêng rụng tại vườn, 'kẹt' ở cửa khẩu do các phòng xét nghiệm dừng hoạt động, Chính phủ yêu cầu làm rõ nguyên nhân và trách nhiệm các bên liên quan.