Kết thúc phiên giao dịch 23/12, giá thép thanh kỳ hạn tháng 1/2026 trên Sàn Thượng Hải nhích nhẹ 0,03% (1 nhân dân tệ) lên mức 3.125 nhân dân tệ/tấn. Trên Sàn Đại Liên, giá quặng sắt giảm 0,19% (1,5 nhân dân tệ) về mức 796 nhân dân tệ/tấn. Trên Sàn Singapore, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2026 giảm 0,57 USD về mức 103,8 USD/tấn.
Diễn biến giá thép thanh kỳ hạn tháng 1/2026 trên Sàn SHFE. Nguồn: Barchart
Giá quặng sắt kỳ hạn giảm trong phiên giao dịch ngày thứ Ba, chịu áp lực bởi đợt bảo trì lò cao hàng năm tại các nhà máy thép và tình trạng tồn kho gia tăng tại các cảng của Trung Quốc, theo Reuters.
Hợp đồng quặng sắt giao tháng 5/2026 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) chốt phiên giảm 0,26% xuống còn 778,5 nhân dân tệ (110,77 USD)/tấn.
Một thương nhân tại Singapore cho biết, giá quặng khó có thể vượt ngưỡng 105 USD/tấn do hoạt động tích trữ mùa đông yếu ớt phản ánh nhu cầu thấp, cùng với đó là các biện pháp kiểm soát giá và nguồn cung mà Trung Quốc đang nỗ lực triển khai.
Vị này nhận định hầu hết các bên tham gia thị trường sẽ hạn chế đầu cơ đẩy giá lên cao, trong khi mặt bằng giá hiện tại đang ở giai đoạn củng cố nhưng vẫn duy trì sức mạnh tương đối trong bối cảnh các loại hàng hóa cơ bản đang tăng giá chung.
Theo công ty môi giới Everbright Futures của Trung Quốc, các nhà máy thép hiện đang trong giai đoạn bảo trì lò cao định kỳ, dẫn đến sản lượng gang sụt giảm trên diện rộng.
Song song đó, dữ liệu từ SteelHome cho thấy lượng quặng sắt tồn kho tại các cảng Trung Quốc đã tăng 1,19% so với tuần trước lên khoảng 145,5 triệu tấn tính đến ngày 19/12, cho thấy các yếu tố cơ bản của thị trường đang suy yếu nhẹ.
Trên thị trường ngoại hối, chỉ số đồng USD (DXY) giảm xuống 98,061 vào đầu phiên thứ Ba, đánh dấu mức giảm năm mạnh nhất kể từ 2017 với tỷ lệ 9,5%. Đồng bạc xanh yếu hơn thường giúp các tài sản định giá bằng đồng tiền này trở nên hấp dẫn hơn đối với những nhà đầu tư nắm giữ ngoại tệ khác.
Tại sàn Đại Liên, các nguyên liệu sản xuất thép khác diễn biến trái chiều khi than luyện cốc tăng 1,9% và than cốc tăng 0,26%. Trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải, hầu hết các mặt hàng thép tiêu chuẩn đều tăng điểm, với thép thanh nhích nhẹ 0,19%, thép cuộn cán nóng tăng 0,21% và thép không gỉ tăng 0,98%, riêng thép dây giảm 1,29%.
Áp lực về phía cầu cũng xuất hiện tại Nhật Bản khi Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (METI) dự báo sản lượng thép thô của nước này sẽ giảm 1,7% trong quý I/2026 do nhu cầu yếu từ ngành xây dựng và sản xuất. Dự báo này sẽ đưa tổng sản lượng hàng năm của nhà sản xuất thép lớn thứ ba thế giới xuống còn 80,33 triệu tấn, giảm 3,2% so với năm trước và là mức thấp nhất kể từ năm 1968.
Trong nước, các doanh nghiệp bình ổn giá thép xây dựng. Cụ thể Hòa Phát báo giá thép CB240 và CB300 ghi nhận lần lượt 13.500 đồng/kg và 13.090 đồng/kg. Việt Đức chào giá CB240 ở mức 13.350 đồng/kg và CB300 12.850 đồng/kg, Tương tự, một số doanh nghiệp khác cũng giữ giá bình ổn, gồm thép Pomina với CB240 - CB300 ghi nhận 14.440 – 14.290 đồng/kg và thép VJS 13.230 – 12.830 đồng/kg.
Giá thép ghi nhận tới ngày 24/12/2025. Nguồn: SteelOnline
Bước sang năm 2026, xuất khẩu thép Việt Nam nhiều khả năng tiếp tục suy giảm khi chịu tác động từ cơ chế CBAM của EU và xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng, trong bối cảnh xuất khẩu sang thị trường châu Âu đã giảm sâu và các yêu cầu về phát thải ngày càng khắt khe.
Giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản tăng nhẹ giữa áp lực tỷ giá và kỳ vọng xuất khẩu từ Indonesia.
Giá dầu thô duy trì đà tăng nhẹ trong phiên sáng ngày thứ Tư (24/12) trong bối cảnh nhà đầu tư đánh giá số liệu tăng trưởng kinh tế Mỹ vượt kỳ vọng và những rủi ro tiềm ẩn liên quan đến nguồn cung dầu từ Venezuela và Nga.
Giá vàng trong nước hôm nay (24/12) tiếp tục xác lập mức cao chưa từng có. Trên thị trường thế giới, giá vàng tiếp đà tăng sau khi lập kỷ lục mới vào hôm trước nhờ căng thẳng địa chính trị, chính sách nới lỏng lãi suất của Mỹ, hoạt động mua vào mạnh mẽ từ các ngân hàng trung ương và nhu cầu đầu tư ổn định.