Kết thúc phiên giao dịch 6/6, giá thép thanh kỳ hạn tháng 6 trên Sàn Thượng Hải tăng 1,07% (31 nhân dân tệ) lên mức 2.924 nhân dân tệ/tấn. Trên Sàn Đại Liên, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 6 trên Sàn Đại Liên đi ngang mức 754,5 nhân dân tệ/tấn. Trong khi đó, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 6 trên Sàn Singapore tăng 0,59 USD lên mức 96,26 USD/tấn.
So với cuối tuần trước, giá quặng sắt Đại Liên và Singapore thay đổi lần lượt (+0,3%) và (-0,2%). Giá thép trên Sàn Thượng Hải gần như không thay đổi đáng kể.
 
Diễn biến giá thép thanh kỳ hạn tháng 6 trên Sàn Thượng Hải. Nguồn: Barchart
Mức thuế 50% mới của Mỹ đối với thép nhập khẩu đã giáng một đòn mạnh vào thị trường thép châu Âu vốn đã suy yếu. Theo dự báo kinh tế và thị trường mới nhất của Hiệp hội Thép Châu Âu (EUROFER), mức tăng trưởng từng được kỳ vọng vào năm 2025 sẽ không xảy ra. Thay vào đó, EU sẽ chứng kiến năm thứ tư liên tiếp tiêu thụ thép suy giảm (- 0,9%) vào năm 2025, sau mức giảm 1,1% trong năm 2024.
Tình hình trong lĩnh vực công nghiệp vẫn yếu, bất chấp sự vững vàng tương đối của ngành dịch vụ. Tổng tiêu thụ thép sẽ không tăng đáng kể cho đến năm 2026, và khối lượng tiêu thụ hiện vẫn thấp hơn nhiều so với mức trước đại dịch.
Tiêu thụ thép ở Liên minh Châu Âu tiếp tục giảm và theo báo cáo “Triển vọng Kinh tế và Thị trường Thép 2025–2026, quý II” của EUROFER, cả tiêu thụ thép thực tế và tiêu thụ thép biểu kiến ở EU đều sẽ tiếp tục giảm lần lượt giảm 3,3% và 0,9% so với cùng kỳ năm trước.
Tiêu thụ thực tế, thể hiện mức sử dụng thép thực sự của các ngành chủ chốt, đã giảm 4,7% trong năm 2024 và giảm tới 8,5% chỉ trong quý IV. Việc dự báo tiếp tục giảm trong năm 2025 cho thấy cuộc khủng hoảng vẫn tiếp diễn trong bối cảnh niềm tin kinh doanh thấp, sản xuất công nghiệp suy yếu và thiếu các điều kiện tiên quyết để nhu cầu phục hồi.
Tiêu thụ biểu kiến, bao gồm cả biến động tồn kho, mặc dù đã ghi nhận mức tăng nhẹ vào cuối năm 2024 (+0,5% so với cùng kỳ năm trước) nhưng nhìn chung cả năm vẫn giảm 1,1%. EUROFER lưu ý rằng những kỳ vọng về sự cải thiện trong năm 2025 đã không thành hiện thực do các rủi ro mới, đặc biệt là tác động từ các mức thuế thương mại mới của Mỹ.
Sản xuất trong nước cũng chịu áp lực lớn do tỷ lệ thép nhập khẩu cao: năm 2024, tỷ trọng nhập khẩu chiếm tới 27% tổng tiêu thụ – một trong những mức cao nhất trong lịch sử. Trong khi đó, lượng cung thép nội địa lại giảm 2,8% so với cùng kỳ năm trước.
EUROFER dự báo thị trường sẽ không phục hồi trước năm 2026, khi tiêu thụ thép biểu kiến được kỳ vọng tăng 3,4% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, sự phục hồi này chỉ có thể xảy ra nếu điều kiện kinh tế được cải thiện và căng thẳng toàn cầu lắng dịu.
Trong nước, các doanh nghiệp giữ giá thép bình ổn. Cụ thể, giá thép CB240 của Hòa Phát ghi nhận 13.650đ/kg; thép CB300 báo giá 13.790đ/kg. Tương tự, ở doanh nghiệp thép Việt Đức, giá thép CB240 ở mức 13.350đ/kg; thép D10 CB300 bình giá 13.350đ/kg. Với thép Thái Nguyên, giá thép CB240 giữ nguyên mức 13.970đ/kg và D10 CB300 mức 14.080đ/kg.
 
Giá thép ghi nhận tới ngày 7/6/2025. Nguồn: SteelOnline
 
            
            Xuất khẩu gạo của Ấn Độ được dự báo sẽ tăng hơn 10% về khối lượng trong tài khóa hiện tại (kết thúc ngày 31/3/2026), khi nhu cầu từ các thị trường nước ngoài tiếp tục phục hồi mạnh mẽ.
 
            
            Tập đoàn T&T vừa đề xuất phương án đầu tư các dự án: Khu đô thị dịch vụ hỗn hợp thương mại và dịch vụ sân golf Vĩnh Lương tại phường Bắc Nha Trang; Khu công nghiệp Ninh An và Ninh Diêm 2; 4 dự án năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) trên địa bàn tỉnh Khánh Hoà.
 
            
            Các nhà máy thép Trung Quốc đang đối mặt với sức ép trở lại sau giai đoạn lợi nhuận phục hồi ngắn ngủi, khi chi phí nguyên liệu đầu vào tăng cao. Điều này đe dọa xói mòn lợi nhuận trong thời gian tới dù kết quả kinh doanh quý III vừa qua có cải thiện, theo Bloomberg.
 
            
            Giá lúa gạo hôm nay (31/10) tại thị trường trong nước không ghi nhận biến động mới so với ngày hôm trước. Tuy nhiên, giá gạo thơm 5% tấm xuất khẩu giảm xuống mức thấp nhất 2 tháng trong tuần qua do nhu cầu yếu và chất lượng vụ mùa kém.
 
            
            