Ghi nhận trong sáng nay, giá tiêu tại các địa phương sản xuất trọng điểm tiếp tục giao dịch quanh mốc 145.000 – 147.000 đồng/kg. Đây đã là ngày đi ngang thứ 6 liên tiếp tại thị trường nội địa.
Theo đó, giá tiêu tại Đắk Lắk và Đắk Nông (tỉnh Lâm Đồng) đang được thu mua ở mức cao nhất là 147.000 đồng/kg. Tại các địa phương còn lại như Gia Lai, Bình Phước (tỉnh Đồng Nai) và Bà Rịa – Vũng Tàu (TP. Hồ Chí Minh), giá tiêu phổ biến ở mức 145.000 đồng/kg.
|
Thị trường (khu vực khảo sát) |
Giá thu mua ngày 11/11 (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Thay đổi so với ngày hôm trước (Đơn vị: VNĐ/kg) |
|
Đắk Lắk |
147.000 |
- |
|
Gia Lai |
145.000 |
- |
|
Đắk Nông |
147.000 |
- |
|
Bà Rịa – Vũng Tàu |
145.000 |
- |
|
Bình Phước |
145.000 |
- |
|
Đồng Nai |
145.000 |
- |
Kết thúc phiên giao dịch gần nhất, theo dữ liệu của Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC), giá tiêu đen Indonesia sau khi giảm vào tuần trước đang tăng trở lại, được niêm yết ở mức 7.127 USD/tấn, tăng nhẹ 0,22% (tương ứng 16 USD/tấn) so với ngày trước đó.
Trong khi đó, giá tiêu tại các quốc gia sản xuất hàng đầu khác nhìn chung vẫn không đổi. Hiện tiêu đen Brazil ASTA 570 báo giá ở mức 6.100 USD/tấn, còn tiêu đen Malaysia đạt 9.200 USD/tấn.
Tại Việt Nam, giá tiêu đen xuất khẩu tiếp tục dao động trong khoảng 6.400 – 6.600 USD/tấn đối với loại 500 g/l và 550 g/l.
|
Tên loại |
Bảng giá tiêu đen thế giới |
|
|
Ngày 11/11 (ĐVT: USD/tấn) |
% thay đổi so với hôm trước |
|
|
Tiêu đen Lampung (Indonesia) |
7.127 |
+0,22 |
|
Tiêu đen Brazil ASTA 570 |
6.100 |
- |
|
Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA |
9.200 |
- |
|
Tiêu đen Việt Nam (500 g/l) |
6.400 |
- |
|
Tiêu đen Việt Nam (500 g/l) |
6.600 |
- |
Cùng thời điểm khảo sát, giá tiêu trắng Muntok Indonesia tăng 0,23% (22 USD/tấn), đạt 9.771 USD/tấn.
Tại Malaysia và Việt Nam, giá tiêu trắng lần lượt đứng ở mức 12.300 USD/tấn và 9.050 USD/tấn, không đổi so với ngày hôm trước.
|
Tên loại |
Bảng giá tiêu trắng thế giới |
|
|
Ngày 11/11 (ĐVT: USD/tấn) |
% thay đổi so với hôm trước |
|
|
Tiêu trắng Muntok Indonesia |
9.771 |
+0,23 |
|
Tiêu trắng Malaysia ASTA |
12.300 |
- |
|
Tiêu trắng Việt Nam |
9.050 |
- |
Theo báo cáo tuần của IPC, thị trường đầu tháng 11 cho thấy xu hướng trái ngược giữa các nước sản xuất. Trong đó, Việt Nam là nước duy nhất ghi nhận giá nội địa tăng do nhu cầu trong nước ổn định và nguồn cung hạn chế. Trong khi giá xuất khẩu không thay đổi, cho thấy môi trường thương mại ổn định.
Ấn Độ cho thấy sự sụt giảm đối với giá nội địa và xuất khẩu, một phần ảnh hưởng từ việc đồng Rupiah Ấn Độ giảm 1% so với USD (88,69 INR/USD).
Sau 3 tuần liên tiếp ổn định, giá tiêu giao dịch trong nước và xuất khẩu của Indonesia giảm trong tuần trước, phản ánh đà xuất khẩu chững lại.
Tại Malaysia, giá nội địa duy trì ổn định, trong khi giá xuất khẩu giảm nhẹ do nhu cầu mua yếu.
Với Sri Lanka, giá nội địa ổn định, cho thấy sự biến động tối thiểu cung và cầu.
Giá tiêu đen Brazil, tiêu đen Campuchia và tiêu trắng Trung Quốc không thay đổi trong 3 tuần liên tiếp, cho thấy sự ổn định tại các quốc gia này.
Từ năm 2023 đến T9/2025, Georgia Séc nhập khẩu 235 tấn hồ tiêu. Việt Nam là nước cung ứng lớn nhất, đạt 69 tấn, tiếp đến là Trung Quốc, Ai Cập, Ukraine và UAE.
Giá cao su Nhật Bản hồi phục nhờ Trung Quốc nới lỏng hạn chế xuất khẩu chip Nexperia và đồng yên suy yếu cũng hỗ trợ đà tăng của giá.
Giá thép và quặng sắt kỳ hạn Trung Quốc giảm nhẹ do lo ngại nhu cầu yếu, tồn kho và áp lực thương mại gia tăng.
Giá dầu thô biến động nhẹ trong phiên giao dịch sáng ngày thứ Ba (11/11), sau khi tăng nhẹ vào hôm trước vì giới phân tích tập trung vào nguy cơ gián đoạn nguồn cung nhiên liệu.
Hiện tại, giá heo hơi trên cả nước dao động từ 47.000 - 51.000 đồng/kg.