Khảo sát cho thấy, giá tiêu sáng nay tại thị trường trong nước dao động trong khoảng 145.000 – 147.000 đồng/kg, tăng 1.000 – 2.000 đồng/kg so với ngày hôm qua.
Cụ thể, sau khi điều chỉnh tăng 2.000 đồng/kg, giá tiêu tại Đắk Nông đang được các thương lái thu mua ở mức 147.000 đồng/kg.
Đắk Lắk cũng ghi nhận mức giá tương tự với 147.000 đồng/kg, tăng 1.000 đồng/kg so với ngày hôm trước.
Tại các địa phương khác như Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Phước và Đồng Nai, giá đồng loạt tăng 1.000 đồng/kg, phổ biến ở mức 146.000 đồng/kg.
Trong khi đó, Gia Lai là địa phương có giá thu mua thấp nhất ở mức 145.000 đồng/kg, tăng 1.000 đồng/kg.
Thị trường (khu vực khảo sát) |
Giá thu mua ngày 7/10 (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Thay đổi so với ngày hôm trước (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Đắk Lắk |
147.000 |
+1.000 |
Gia Lai |
145.000 |
+1.000 |
Đắk Nông |
147.000 |
+2.000 |
Bà Rịa – Vũng Tàu |
146.000 |
+1.000 |
Bình Phước |
146.000 |
+1.000 |
Đồng Nai |
146.000 |
+1.000 |
Kết thúc phiên giao dịch gần nhất, theo dữ liệu từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC), giá tiêu đen Lampung Indonesia đang được giao dịch ở mức 7.225 USD/tấn, tăng 212 USD/tấn (2,93%) so với ngày hôm trước.
Tại các quốc gia sản xuất hàng đầu khác, giá nhìn chung không đổi. Hiện tiêu đen Brazil ASTA 570 được báo giá ở mức 6.200 USD/tấn và tiêu đen Kuching Malaysia đạt 9.500 USD/tấn.
Tại Việt Nam, giá tiêu đen xuất khẩu tiếp tục đi ngang trong khoảng 6.600 – 6.800 USD/tấn đối với loại 500 g/l và 550 g/l.
Tên loại |
Bảng giá tiêu đen thế giới |
|
Ngày 7/10 (ĐVT: USD/tấn) |
% thay đổi so với hôm trước |
|
Tiêu đen Lampung (Indonesia) |
7.225 |
+2,93 |
Tiêu đen Brazil ASTA 570 |
6.200 |
- |
Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA |
9.500 |
- |
Tiêu đen Việt Nam (500 g/l) |
6.600 |
- |
Tiêu đen Việt Nam (500 g/l) |
6.800 |
- |
Cùng thời điểm khảo sát, giá tiêu trắng Muntok Indonesia đang được báo giá ở mức 10.080 USD/tấn, tăng 167 USD/tấn (1,41%) so với ngày hôm trước.
Trong khi đó, tiêu trắng Malaysia ASTA và Việt Nam vẫn duy trì ở mốc 12.500 USD/tấn và 9.250 USD/tấn.
Tên loại |
Bảng giá tiêu trắng thế giới |
|
Ngày 7/10 (ĐVT: USD/tấn) |
% thay đổi so với hôm trước |
|
Tiêu trắng Muntok Indonesia |
10.080 |
+1,41 |
Tiêu trắng Malaysia ASTA |
12.500 |
- |
Tiêu trắng Việt Nam |
9.250 |
- |
Thống kê bộ của VPSA, trong tháng 9/2025 Việt Nam xuất khẩu được 20.487 tấn hồ tiêu các loại, tiêu đen đạt 17.486 tấn, tiêu trắng đạt 3.001 tấn. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 136,3 triệu USD, so với tháng 8 lượng xuất khẩu giảm 4,6%, kim ngạch giảm 2,5% và so với cùng kỳ năm 2024 lượng xuất khẩu tăng 19,5%, kim ngạch tăng 23,2%.
Giá xuất khẩu bình quân tiêu đen trong tháng 9 đạt 6.490 USD/tấn, tiêu trắng đạt 8.679 USD/tấn, tăng 2,4% đối với tiêu đen và 1,4% đối với tiêu trắng so với tháng trước.
Olam, Phúc Sinh và Nedspice là 3 doanh nghiệp xuất khẩu lớn nhất trong tháng với khối lượng đạt lần lượt là 1.942 tấn, 1.721 tấn và 1.637 tấn.
Trong khi đó Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu hồ tiêu hàng đầu của hồ tiêu Việt Nam trong tháng vừa qua, đạt 4.274 tấn, giảm 11,1% so với tháng trước và chiếm 20,9% thị phần.
Tiếp theo là các thị trường: Trung Quốc: 2.071 tấn, giảm 10,1% so với tháng trước; UAE: 1.962 tấn, tăng 15,5%; Hà Lan: 940 tấn, tăng 21,8%; Thái Lan và Đức lần lượt đạt 863 tấn và 861 tấn, tăng 0,8% và giảm 2,3%.
Lũy tiến từ 01/01 đến 30/9/2025, Việt Nam đã xuất khẩu được 186.997 tấn hồ tiêu các loại, trong đó tiêu đen đạt 160.113 tấn, tiêu trắng đạt 26.884 tấn. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 1,26 triệu USD, bao gồm tiêu đen đạt 1,04 tỷ USD, tiêu trắng đạt 219,1 triệu USD.
So với cùng kỳ năm 2024 lượng xuất khẩu giảm 6,9% tuy nhiên kim ngạch lại tăng tới 27,6%, nhờ giá tăng cao.
Giá xuất khẩu bình quân tiêu đen 9 tháng đạt 6.647 USD/tấn, tiêu trắng đạt 8.716 USD/tấn, tăng lần lượt 1.795 USD đối với tiêu đen và 2.254 USD đối với tiêu trắng so với cùng kỳ năm 2024.
Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng đầu trong 9 tháng đầu năm bao gồm: Olam đạt 18.446 tấn, giảm 10,3% và chiếm 9,9%, Nedspice Việt Nam: 15.975 tấn, tăng 5,5% và chiếm 8,5%; Phúc Sinh: 14.853 tấn, giảm 19,8% và chiếm 7,9%; Simexco Đăk Lăk: 10.618 tấn, giảm 1,4% và chiếm 5,7%; Haprosimex JSC: 10.166 tấn, giảm 32,5% và chiếm 5,4%.
Về thị trường tiêu thụ 9 tháng đầu năm, Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu hồ tiêu lớn nhất của Việt Nam chiếm 21,4%, tuy nhiên so cùng kỳ giảm 30,4% đạt 39.979 tấn.
Các thị trường xuất khẩu lớn hàng đầu khác gồm: Trung Quốc: 15.353 tấn, tăng 73,3% và chiếm 8,2%; UAE: 14.848 tấn, tăng 12,8% và chiếm 7,9%; Ấn Độ: 10.942 tấn, tăng 17,5% và chiếm 5,9%; Đức: 9.641 tấn, giảm 24,5%…
Theo khảo sát, giá phân bón hôm nay (7/10) duy trì bình ổn ở miền Trung và Tây Nam Bộ. Hiện tại, 1.250.000 - 1.300.000 đồng/bao là giá niêm yết cao nhất đối với phân DAP Hồng Hà.
Hiệp hội thương mại của ngành thép cảnh báo rằng ngành thép Anh đang đối mặt với “khủng hoảng lớn nhất” trong lịch sử, khi Liên minh châu Âu chuẩn bị áp các mức thuế khắc nghiệt có thể gây ảnh hưởng nặng nề hơn cả các biện pháp mà Mỹ đã áp.
Giá cao su Nhật Bản tăng trở lại sau 6 phiên giảm liên tiếp khi đồng yên suy yếu.
Giá cà phê hôm nay đồng loạt đi xuống trên cả hai sàn giao dịch, trong đó robusta giảm 56 USD/tấn và arabica mất 9,4 US cent/pound. Các nhà giao dịch đang chờ đợi kết quả đàm phán giữa Tổng thống Mỹ và Tổng thống Brazil về khả năng dỡ bỏ mức thuế 50% của Mỹ đối với cà phê nhập khẩu từ Brazil.