18/06/2025 15:54

Ngân hàng kỳ vọng 'cửa thoát' nợ xấu từ việc luật hóa Nghị quyết 42

Việc Nghị quyết 42 hết hiệu lực đang tạo ra khoảng trống pháp lý đáng lo ngại trong xử lý nợ xấu. Trong bối cảnh áp lực lên hệ thống ngân hàng ngày càng lớn, việc luật hóa các nội dung then chốt của nghị quyết này là cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng.

Giai đoạn trước 2011, tín dụng ngân hàng bùng nổ, đặc biệt chảy mạnh vào bất động sản và doanh nghiệp lớn. Việc cấp tín dụng dễ dàng dựa trên tài sản đảm bảo là nhà đất khiến thị trường tăng trưởng nóng, tiềm ẩn rủi ro lớn.

Tuy nhiên, từ 2011 đến 2013, chính sách siết tín dụng và lãi suất cao đã khiến thị trường đóng băng, doanh nghiệp mất thanh khoản, nợ xấu tăng mạnh. Tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống khi đó có lúc xấp xỉ 10% tổng dư nợ, quá trình xử lý nợ khi đó gặp nhiều vướng mắc do thiếu cơ chế pháp lý cho việc thu giữ tài sản.

Để ứng phó, năm 2013, Chính phủ thành lập Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), song mô hình này vẫn chưa giải quyết triệt để do hành lang pháp lý chưa đầy đủ.

Bước ngoặt đến vào năm 2017, khi Nghị quyết 42/2017 được ban hành - văn bản thí điểm từng đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng trong giai đoạn 2020 trở về trước.

Văn bản cho phép tổ chức tín dụng thu giữ tài sản bảo đảm theo hợp đồng, xác định rõ nợ xấu và tăng quyền cho VAMC. Chính nhờ Nghị quyết 42 mà trong các năm vừa rồi, việc xử lý nợ xấu đã đạt hiệu quả tốt hơn rất nhiều, nhất là trong các trường hợp bị chống đối thi hành án.

Tuy nhiên, khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực (ngày 1/1/2024) các cơ chế đặc biệt đó cũng không được áp dụng nữa, giới chuyên gia nhận định điều này tạo ra một khoảng trống chính sách, nếu quay lại cơ chế cũ thì sẽ không còn hiệu quả. 

Song, câu hỏi đặt ra là liệu việc luật hóa nghị quyết này có giúp giải quyết dứt điểm bài toán nợ xấu trong nhiều năm qua?

(Ảnh minh hoạ: VOV)

Đòn bẩy xử lý nợ xấu cho ngân hàng

Thực tế cho thấy, ngành ngân hàng là một trong số ít lĩnh vực chịu sự điều tiết bởi hệ thống pháp lý đặc thù và chặt chẽ. Do đó, các nghị quyết của Quốc hội hay Chính phủ, một khi được ban hành sẽ có tác động cụ thể đến hoạt động của ngành này.

Nghị quyết 42 từng được thiết kế nhằm trao quyền chủ động hơn cho các tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm của các khoản vay không có khả năng thu hồi. Trên thực tế tại các ngân hàng, bộ phận xử lý nợ xấu thường phân định rõ nợ xấu theo quy trình thông thường, nợ xấu xử lý qua tòa án và nợ xấu được xử lý theo Nghị quyết 42.

Dẫn số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), hệ thống TCTD xử lý được trung bình 5.800 tỷ đồng nợ xấu mỗi tháng, cao hơn gần 2.300 tỷ đồng so với thời điểm trước khi có Nghị quyết. Tổng cộng, hơn 443.800 tỷ đồng nợ xấu đã được xử lý. Tỷ lệ khách hàng tự nguyện trả nợ tăng từ khoảng 20% lên đến hơn 36%, hình thức xử lý nợ thông qua phát mại tài sản bảo đảm cũng đạt gần 21%.

Tuy nhiên, khoảng trống pháp lý đã xuất hiện khi nghị định hết hiệu lực, một số nội dung quan trọng vẫn chưa được luật hóa, gây khó khăn trong thực thi, đặc biệt liên quan đến quyền xử lý tài sản bảo đảm, thu giữ tài sản và thu hồi nợ.

Theo NHNN, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng đang tạo áp lực lên hệ thống ngân hàng, đặc biệt đặt trong bối cảnh hiện tại khi năm 2025 được xác định là năm tăng tốc, bứt phá để về đích cả nhiệm kỳ 2021-2025 và mục tiêu tăng trưởng GDP ít nhất 8%. 

Nguyên nhân xuất phát từ kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn; thị trường bất động sản và chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp phục hồi chậm. Các tổ chức mua bán nợ cũng gặp vướng mắc khi thực thi quyền xử lý tài sản bảo đảm do thiếu cơ chế pháp lý rõ ràng và đồng bộ. 

Trên cơ sở đó, NHNN cho biết dự thảo Luật lần này tiếp tục luật hóa các quy định tại Nghị quyết số 42 đã phát huy tốt hiệu quả trong thực tiễn, bao gồm luật hóa quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm; luật hóa quy định về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án; luật hóa quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự và bổ sung quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

Tại phiên họp Thường vụ Quốc hội, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng khẳng định, thu giữ tài sản bảo đảm không phải là hành động đơn phương, vô điều kiện, mà phải tuân thủ phạm vi, giới hạn, điều kiện thu giữ, tôn trọng quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận của các bên. Quy định về trình tự, thủ tục thu giữ phải công bằng, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên có nghĩa vụ, tổ chức tín dụng và các bên liên quan.

"Để tránh việc lạm quyền, Dự thảo Luật Các TCTD (sửa đổi) quy định, TCTD không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không hạn chế quyền khiếu nại của các bên, đặc biệt là bên bảo đảm và bên đang giữ tài sản bảo đảm. 

Hoạt động thu giữ tài sản bảo đảm và hoạt động của tổ chức tín dụng nói chung chịu sự quản lý, kiểm tra, thanh tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có NHNN", Thống đốc khẳng định.

Nếu luật hóa Nghị quyết 42, ngân hàng sẽ hưởng lợi nhất?

Chia sẻ với chúng tôi, chuyên gia Lê Hoài Ân, CFA – Chuyên gia Nghiên cứu Chiến lược Ngân hàng, cho biết Quốc hội đang bàn về việc luật hoá Nghị quyết 42, tức là đưa một nghị quyết thí điểm, có thời hạn, trở thành luật dài hạn. Việc này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng xử lý nợ xấu của các ngân hàng.

Theo ông Ân, ngân hàng khi cho vay thì luôn yêu cầu tài sản đảm bảo. Tuy nhiên, không phải cứ người vay không trả được nợ là ngân hàng có thể tự ý thanh lý tài sản đảm bảo. Việc đó liên quan đến quyền lợi của người vay và phải có sự đồng thuận. Nhất là những trường hợp người vay cố tình chây ì. Do đó, việc xử lý nợ xấu lúc đó gây khó khăn cho ngân hàng, thậm chí kéo dài nhiều năm

Trong bối cảnh Nghị quyết 42 hết hiệu lực từ cuối năm 2023, các cơ chế xử lý nợ đặc thù cũng không còn được áp dụng, khiến nhiều ngân hàng gặp khó khăn trong việc thu hồi nợ, đặc biệt ở những khoản vay bị chây ì hoặc vướng mắc pháp lý liên quan đến tài sản đảm bảo.

"Theo cảm nhận phổ biến, các ngân hàng quốc doanh ít bị ảnh hưởng bởi nợ xấu hơn do chất lượng khách hàng tốt và tài sản đảm bảo có chất lượng cao. Trên thực tế, dữ liệu năm 2024 cho thấy giá trị tài sản đảm bảo tại các ngân hàng quốc doanh thường lớn hơn nhiều so với dư nợ." ông Ân chia sẻ. 

 

Vị chuyên gia này cũng đưa ra phân tích tỷ lệ tổng dư nợ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo để làm rõ mức độ thận trọng của từng nhóm khách hàng. Cụ thể, nhóm quốc doanh có tỷ lệ tổng dư nợ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo thấp nhất, tiếp theo là cá nhân, sau đó đến nhóm doanh nghiệp, trong khi nhóm “khác” ghi nhận tỷ lệ LTV cao nhất.

Từ thực tế này, ông nhận định: “Nếu luật hóa Nghị quyết 42, những ngân hàng hưởng lợi sẽ là những ngân hàng đang có nhiều nợ xấu, cần xử lý nhanh để hoàn nhập dự phòng, qua đó ghi nhận lợi nhuận trở lại. Đó thường là các ngân hàng quy mô nhỏ, có nợ xấu tăng nhanh hoặc một số nhà băng có danh mục cho vay doanh nghiệp.”

Đối với nhóm ngân hàng quốc doanh, chuyên gia này đánh giá “Có thể BIDV sẽ hưởng lợi nhiều nhất, vì hiện tại nợ xấu đang tăng nhanh. Vietcombank hay VietinBank thì ít bị tác động hơn.”

“Tất nhiên, toàn ngành ngân hàng sẽ được hưởng lợi nếu Nghị quyết 42 được luật hóa, chỉ là mức độ hưởng lợi sẽ khác nhau. Tuy nhiên, việc luật hoá đang cần với ai hơn thì ngân hàng đó sẽ được hỗ trợ nhiều hơn", chuyên gia nhấn mạnh. 

Minh Nguyệt