Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell. (Ảnh: Business Insider/Getty Images).
Vào ngày 17/9, các quan chức Fed đã hạ lãi suất 25 điểm cơ bản (bps) xuống phạm vi mục tiêu 4 - 4,25%. Động thái này không gây bất ngờ, bởi từ trước các nhà đầu tư đã tin chắc Fed sẽ hành động khi thị trường lao động suy yếu.
Dù vậy, chứng khoán Mỹ vẫn hân hoan với đợt giảm lãi suất vừa qua. Cả ba chỉ số chính gồm S&P 500, Dow Jones và Nasdaq Composite đều lập kỷ lục mới trong các phiên gần đây. Dường như các nhà đầu tư tự tin rằng chu kỳ giảm lãi suất của Fed sẽ giải nguy cho thị trường lao động và nền kinh tế.
Tuy nhiên, giới đầu tư có thể đã ăn mừng hơi sớm. Đợt hạ lãi suất của Fed chưa chắc có thể vực dậy thị trường lao động và còn có nguy cơ thúc đẩy lạm phát.
Trong giai đoạn năm 2022 - 2024, trung bình mỗi tháng nền kinh tế Mỹ có thêm hơn 254.000 việc làm. Trong 8 tháng đầu năm 2025, con số này đã giảm còn 75.000, chưa tới 1/3 giai đoạn trước.
Tính riêng trong tháng 8, Mỹ chỉ có thêm 22.000 việc làm, trong khi tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 4,3%. Số liệu thực tế kém xa dự đoán của các chuyên gia và cũng thấp hơn hẳn mức tăng 79.000 việc làm ghi nhận vào tháng 7.
Ông Kevin Gordon, chuyên gia đầu tư cấp cao tại Charles Schwab, bình luận: “Mức tăng trưởng việc làm của tháng 8 rất yếu. Nếu xét riêng lẻ, con số này giống với những giai đoạn khởi đầu suy thoái trong lịch sử”.
Trong bối cảnh tăng trưởng việc làm giảm tốc rõ rệt và tỷ lệ thất nghiệp tăng lên gần mức cao nhất trong vòng 4 năm, các nhà hoạch định chính sách cũng không khỏi lo ngại.
Chủ tịch Fed Jerome Powell phát biểu tại buổi họp báo sau cuộc họp chính sách tháng 9: “Thị trường lao động đang yếu đi và chúng tôi không cần nó suy yếu thêm nữa..."
Khi Fed hạ lãi suất, thị trường lao động thường sẽ nhận một cú hích. Khi đó, chi phí đi vay rẻ hơn sẽ thúc đẩy công chúng chi tiêu và doanh nghiệp đầu tư, giúp củng cố nhu cầu dành cho lao động. Trong điều kiện bình thường, biện pháp này có thể đủ sức để củng cố thị trường lao động.
Tuy nhiên, hai lực cản lớn nhất đối với thị trường lao động lúc này lại xuất phát từ Nhà Trắng, cụ thể là chính sách nhập cư và thuế quan.
Người nhập cư là thành phần quan trọng của thị trường lao động Mỹ. Theo số liệu của Cục Thống kê Lao động Mỹ, vào cuối năm 2024, người nhập cư chiếm hơn 19% lực lượng lao động, tương ứng hơn 32 triệu người. Tuy nhiên, lực lượng này đang giảm mạnh vì chính sách của Nhà Trắng.
Tổng thống Donald Trump đặt mục tiêu trục xuất 1 triệu người nhập cư trong năm đầu nhiệm kỳ thứ hai. Hôm 22/9, Bộ An ninh Nội địa Mỹ tự hào thông báo rằng trong chưa đầy 250 ngày, khoảng 2 triệu người nhập cư bất hợp pháp đã bị trục xuất hoặc tự nguyện rời đi.
Chiến dịch của Nhà Trắng khiến lực lượng lao động nhập cư sụt giảm rõ rệt. Phân tích của Quỹ Chính sách Quốc gia (NFAP) cho thấy vào tháng 8, số lao động sinh ra ở nước ngoài đã giảm 1,1 triệu so với tháng 1.
Nhà Trắng lập luận rằng chính sách siết nhập cư sẽ giúp cải thiện cơ hội cho lao động sinh ra tại Mỹ. Tuy nhiên, Forbes cho biết chưa có bằng chứng nào chứng minh nhận định này.
Trái lại, số liệu từ Viện Chính sách Kinh tế Mỹ cho thấy tình hình việc làm của nhóm lao động sinh ra tại Mỹ còn xấu đi: tỷ lệ thất nghiệp của nhóm này trong tháng 7/2025 tăng lên 4,7%, đánh dấu mức cao nhất kể từ năm 2021. Con số này còn vượt cả mức thất nghiệp chung toàn quốc.
Ông Steve Liesman, phóng viên kinh tế cấp cao của CNBC, giải thích: “Nhiều công việc mà người nhập cư đảm nhận vốn dĩ không phải là lựa chọn truyền thống của lao động sinh ra tại Mỹ".
Theo Apollo Global Management, lao động nhập cư chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các nghề làm móng, phân loại nông sản, lắp đặt vách thạch cao, ốp trần, trát tường, trát vữa và lái xe taxi. Đây là những công việc phổ thông, không đòi hỏi nhiều bằng cấp và mức lương cũng không cao so với mặt bằng chung.
Chưa dừng lại, người nhập cư còn là lực lượng trụ cột trong nhiều ngành thiết yếu. Thống kê cho thấy họ chiếm khoảng 30% lực lượng lao động trong ngành xây dựng, khách sạn và 68% tại các nông trại. Thiếu hụt nhân lực trong các ngành này gây ra rủi ro trực tiếp cho chuỗi cung ứng, chi phí sản xuất và giá cả tiêu dùng.
Ngoài ra, nhà kinh tế Mark Regets của NFAP chỉ ra rằng sự suy giảm của lao động nhập cư còn có thể làm giảm nhu cầu tiêu dùng, bởi họ vừa tham gia sản xuất, vừa là khách hàng tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ ở Mỹ.
Doanh nghiệp bán được ít hàng hoá và dịch vụ hơn sẽ không có động lực để thuê thêm nhân viên. Kết quả là các vụ trục xuất lao động nhập cư gây áp lực làm giảm cả cung lẫn cầu trên thị trường lao động, khiến tốc độ tạo việc làm chậm lại.
Nói cách khác, chính sách nhập cư hiện nay đang tạo ra một cú sốc mang tính cấu trúc cho nguồn cung lao động. Đây là vấn đề vượt ra ngoài tầm tác động của chính sách tiền tệ nên việc Fed hạ lãi suất khó có thể khắc phục.
Chính quyền ông Trump áp thuế quan đối ứng tối thiểu 10% với hầu hết các đối tác thương mại, 15% đối với các quốc gia và vùng lãnh thổ có thặng dư thương mại hàng hóa nhỏ hoặc đã đạt thỏa thuận với Mỹ. 26 nền kinh tế khác chịu mức thuế cao hơn, dao động trong khoảng 18 - 41%.
Ngoài ra, ông Trump còn tăng mạnh thuế quan đối với những mặt hàng được coi là thiết yếu với an ninh quốc gia. Tiêu biểu, đồng, nhôm và thép - những kim loại được sử dụng rộng rãi - phải chịu thuế suất 50%.
Thuế quan làm tăng chi phí của doanh nghiệp, người tiêu dùng và ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm. Ông Torsten Slok, nhà kinh tế trưởng tại Apollo Global Management, ước tính kể từ tháng 3 – khi ông Trump khởi động cuộc chiến thương mại toàn cầu – đến tháng 8, việc làm trong các ngành bị ảnh hưởng trực tiếp đã giảm 90.100.
Trong giai đoạn đó, tăng trưởng việc làm chủ yếu đến từ những lĩnh vực chịu ít tác động của thuế quan, bao gồm y tế và khách sạn. Riêng với ngành y tế, các nghiên cứu cho thấy tốc độ tăng trưởng việc làm thường khá ổn định, bất kể chu kỳ kinh doanh.
Ngay cả trong cuộc Đại Suy thoái năm 2008, hầu hết các ngành đều giảm việc làm, lĩnh vực y tế vẫn ghi nhận tăng trưởng. Nguyên nhân chính là hệ thống bảo hiểm y tế vốn chi trả phần lớn chi phí chăm sóc sức khỏe cá nhân, giúp bệnh nhân ít chịu ảnh hưởng từ biến động giá cả, trái ngược với nhiều loại hàng hóa và dịch vụ khác thường rất nhạy cảm với giá.
Ông Slok liệt kê những ngành chịu ảnh hưởng nhiều từ thuế quan bao gồm sản xuất, khai thác mỏ và gỗ, xây dựng, bán buôn, bán lẻ, vận tải và kho bãi. Trong tháng 8, các ngành này chiếm gần 40% tổng việc làm phi nông nghiệp ở Mỹ. Nói cách khác, bất kỳ biến động nào trong nhóm ngành này đều có ảnh hưởng lớn đến triển vọng tăng trưởng việc làm của nước Mỹ.
Đợt cắt giảm lãi suất 25 bps của Fed giúp giảm bớt gánh nặng nợ vay cho doanh nghiệp, nhưng không thể bù đắp thuế quan lên tới 50% cho nguyên vật liệu đầu vào. Chi phí đầu vào gia tăng buộc doanh nghiệp đối mặt với hai lựa chọn khó khăn: gắng gượng giữ giá bán sản phẩm hoặc tăng giá.
Với lựa chọn thứ nhất, doanh nghiệp sẽ phải chấp nhận biên lợi nhuận bị thu hẹp. Lựa chọn thứ hai đi kèm với rủi ro người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu. Cả hai phương án đều không mấy khả quan với triển vọng kinh doanh và khả năng tuyển dụng của doanh nghiệp.
Lãi suất là công cụ đắc lực nhất của Fed trong điều tiết nền kinh tế. Tuy nhiên, chỉ riêng lãi suất không thể khắc phục mọi khó khăn mà doanh nghiệp và người lao động gặp phải. Thêm nữa, Fed cũng không thể liên tục giảm lãi suất để ngăn thị trường lao động suy yếu, bởi các quan chức vẫn cần phải đề phòng rủi ro lạm phát gia tăng vì thuế quan.
Theo nghiên cứu của Goldman Sachs, cho đến nay doanh nghiệp Mỹ vẫn gánh phần lớn chi phí thuế quan. Nhóm chuyên gia của ngân hàng này ước tính người tiêu dùng phải chịu 22% chi phí thuế quan vào tháng 6, nhưng tỷ lệ này có thể tăng vọt lên 67% vào tháng 10. Trong khi đó, gánh nặng của doanh nghiệp sẽ giảm mạnh từ 64% xuống 8%.
Điều này đồng nghĩa với việc giá cả tại Mỹ có thể leo thang khi doanh nghiệp không thể tiếp tục hấp thụ chi phí và buộc phải san bớt gánh nặng sang phía khách hàng.
Đây chính là nguy cơ khiến một số quan chức Fed ngần ngại giảm lãi suất thêm nữa. Trong bài phát biểu mới nhất sau cuộc họp chính sách tháng 9, Chủ tịch Powell cũng không phát tín hiệu Fed sẽ tiếp tục hạ lãi suất.
Ông phát biểu trước các lãnh đạo doanh nghiệp tại Providence (Rhode Island): “Trong ngắn hạn, lạm phát có rủi ro tăng và việc làm có nguy cơ giảm - một tình huống đầy thách thức. Rủi ro hai chiều cho thấy không có con đường nào là dễ dàng cho chúng tôi”.
Trong nhiệm kỳ thứ hai, Tổng thống Donald Trump đã dồn dập đánh thuế lên các đối tác thương mại và nhiều ngành hàng chiến lược của Mỹ.
Tòa án Tối cao Mỹ cho phép bà Lisa Cook tạm thời tiếp tục công việc tại Hội đồng Thống đốc Fed trong lúc chờ phiên tranh luận vào tháng 1 năm sau về việc liệu Tổng thống Donald Trump có lý do hợp pháp để sa thải bà hay không.
Goldman Sachs nhận định châu Á, đặc biệt là Nhật Bản, đang hưởng lợi khi giới đầu tư quốc tế rót mạnh vốn vào công nghệ, công nghiệp và tiêu dùng, giữa xu hướng dịch chuyển ra ngoài thị trường Mỹ.
Chỉ số S&P 500 tiếp tục lập kỷ lục mới khi thị trường kỳ vọng rằng đợt đóng cửa của chính phủ Mỹ sẽ không kéo dài và ít tác động tới nền kinh tế.