Sự trỗi dậy kinh tế của Việt Nam là hết sức phi thường khi đã thực hiện một cuộc chuyển đổi ở cả ba phương diện: Từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, từ nhập siêu sang hội nhập dựa vào xuất khẩu và từ tình trạng đói nghèo cùng cực sang vị thế quốc gia có thu nhập trung bình thấp.
Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình với thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 4.700 USD năm 2024, tăng khoảng 63 lần; quy mô nền kinh tế tăng vọt gần 106 lần so với năm 1986. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt trên 6,5%/năm, thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng cao trong khu vực.
Việt Nam cũng trở thành công xưởng mới của châu Á, với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tích lũy đạt hơn 380 tỷ USD. Nhiều mặt hàng “made in Vietnam” trở nên quen thuộc với người tiêu dùng thế giới như: Cà phê, hạt tiêu, tôm, cá basa, sản phẩm từ gỗ, dệt may, da giày…
Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng được thúc đẩy bởi tín dụng ngân hàng, đầu tư công và xuất khẩu đang cho thấy những dấu hiệu hụt hơi, đòi hỏi sự điều chỉnh chiến lược để đảm bảo phát triển bền vững trong giai đoạn tới.
Trong nhiều năm, việc mở rộng tín dụng ngân hàng một cách mạnh mẽ đã thúc đẩy tăng trưởng của Việt Nam trong một thời gian dài.
Giai đoạn 2007 – 2010, cho vay của các ngân hàng đã tăng vọt tới 36% mỗi năm, và trong năm 2007 đạt mức 53,8%. Dòng vốn tín dụng dồi dào đã góp phần hỗ trợ tăng trưởng ngắn hạn, song cũng kéo theo những hệ lụy về kinh tế vĩ mô, thể hiện rõ qua tình trạng lạm phát tăng mạnh vào các năm 2008 và 2011, lần lượt ở mức 23% và 18,7%.
Sự bùng nổ tín dụng đã tạo áp lực lớn lên hệ thống tài chính, với tỷ lệ nợ xấu được công bố dao động từ 4,9% đến 8,8% vào năm 2012.
Những điểm yếu này đã thúc đẩy các cuộc cải cách ngành ngân hàng, bao gồm việc thành lập Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam (VAMC) vào năm 2013 để giải quyết vấn đề nợ xấu ngày càng gia tăng trong lĩnh vực này.
Thị trường tài chính của Việt Nam vẫn còn non trẻ. Ngoài ngân hàng, các yếu tố chính bao gồm trái phiếu, cổ phiếu và bảo hiểm chưa thực sự phát triển.
Thị trường tài chính Việt Nam hiện vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Ngoài hệ thống ngân hàng, các cấu phần quan trọng như thị trường trái phiếu, cổ phiếu và bảo hiểm chưa phát triển tương xứng với tiềm năng. Đặc biệt, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã tăng trưởng nhanh chóng trong giai đoạn 2018–2022, nhưng diễn ra trong bối cảnh thiếu các quy định chặt chẽ và chưa có hệ thống xếp hạng tín nhiệm độc lập, dẫn đến nhiều rủi ro và biến động.
Tài chính vi mô cũng chưa được chú trọng đúng mức, khiến khả năng tiếp cận vốn của các nhóm yếu thế còn hạn chế. Thị trường chứng khoán dù có nhiều cải thiện, nhưng vẫn được xếp vào nhóm thị trường cận biên, và phải đến 7/10 năm nay mới có cơ hội được nâng hạng.
Ngành bảo hiểm còn nhỏ bé, với bảo hiểm nhân thọ chỉ đóng góp chưa đến 1,5% GDP. Các hình thức hưu trí tư nhân và quỹ tương hỗ vẫn đang trong giai đoạn sơ khai, chưa đóng góp đáng kể vào việc hình thành nguồn vốn dài hạn cho nền kinh tế.
Tăng trưởng GDP giai đoạn 2011 đến nay. (Nguồn: Hạ An tổng hợp từ GSO).
Một hạn chế lớn đối với quá trình chuyển đổi kinh tế của Việt Nam là khu vực kinh tế tư nhân phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Để duy trì tăng trưởng cao và chuyển đổi sang vị thế quốc gia có thu nhập cao, cần có một khu vực tư nhân năng động, hiệu quả và có khả năng cạnh tranh quốc tế.
Tuy nhiên, khoảng 97% trong số gần 1 triệu doanh nghiệp đã đăng ký là các doanh nghiệp siêu nhỏ hoặc nhỏ. Các tập đoàn quy mô vừa vẫn còn hiếm, dẫn đến một khoảng trống về cơ cấu được gọi là ‘sự thiếu hụt các doanh nghiệp quy mô vừa’ (the missing middle). Trong khi đó, khu vực kinh tế phi chính thức ngày càng mở rộng nhưng lại có năng suất lao động thấp, điều kiện việc làm và phúc lợi xã hội còn nhiều hạn chế.
Các doanh nghiệp tư nhân và khu vực phi chính thức vẫn đang đối mặt với nhiều rào cản, bao gồm quy định pháp lý chưa đồng bộ, năng lực nghiên cứu – phát triển còn yếu, khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn, đất đai và lao động có kỹ năng.
Việc chính phủ chuyển hướng sang ưu tiên phát triển khu vực tư nhân là một động thái đáng hoan nghênh. Nhưng các doanh nghiệp nhà nước, một trở ngại đối với khả năng cạnh tranh của khu vực tư nhân, lại không nằm trong chương trình cải cách hiện tại.
Xuất khẩu của Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực chiếm tới 72% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cho thấy vai trò hạn chế của các doanh nghiệp trong nước trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã biến Việt Nam thành một trung tâm sản xuất cạnh tranh, nhưng cũng tạo ra những điểm yếu về cơ cấu: Sự phụ thuộc vào vốn bên ngoài và các yếu tố đầu vào nhập khẩu khiến Việt Nam dễ bị tổn thương trước những gián đoạn của chuỗi cung ứng toàn cầu và các rủi ro địa chính trị.
Việc nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu của doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp vừa, là yêu cầu cấp thiết để đảm bảo tính tự chủ và phát triển bền vững.
Ngoài ra, dòng vốn FDI đã góp phần đưa Việt Nam trở thành một trung tâm sản xuất có sức cạnh tranh, nhưng cũng tạo ra những điểm yếu về cơ cấu: sự phụ thuộc vào vốn ngoại và nguyên vật liệu nhập khẩu khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước các biến động của chuỗi cung ứng toàn cầu và rủi ro địa chính trị.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Cường. (Ảnh: NVCC).
Mặc dù nền kinh tế Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng ấn tượng, cơ cấu Ngân sách Nhà nước của còn tồn tại nhiều bất cập. Một phần đáng kể doanh thu của chính phủ phụ thuộc vào các loại thuế và phí liên quan đến đất đai và thuế tiêu thụ đặc biệt — những nguồn thu không bền vững và dễ bị ảnh hưởng bởi biến động thị trường.
Các cải cách thể chế đang được triển khai nhằm kiểm soát chi thường xuyên và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, hiệu quả thực tế không thể chỉ trông chờ vào việc tinh giản biên chế hay cắt giảm chi phí hành chính.
Để tạo ra chuyển biến có chiều sâu, cần từng bước rà soát và điều chỉnh vai trò của Nhà nước trong hoạt động kinh tế, theo hướng tập trung vào chức năng kiến tạo, giảm bớt chức năng giám sát, đồng thời mở rộng không gian phát triển cho các thành phần kinh tế khác.
Việt Nam vẫn đang theo đuổi tăng trưởng kinh tế tốc độ cao 8% trong năm 2025 và hai con số trong những năm tiếp theo song nguy cơ nền tảng tăng trưởng không ổn định đang ngày càng lớn. Việc loại bỏ hạn mức tín dụng và cắt giảm dự trữ bắt buộc có khả năng sẽ làm gia tăng nợ xấu và khuếch đại rủi ro hệ thống trong ngành ngân hàng.
Đồng Việt Nam tiếp tục mất giá bất chấp USD yếu đi. Dự trữ ngoại hối đã giảm xuống dưới ngưỡng tối thiểu là ba tháng nhập khẩu. Việc mở rộng tiền tệ cũng đang thúc đẩy bong bóng bất động sản và chứng khoán. Đồng thời, suy thoái môi trường và chất lượng sống tại các đô thị lớn đang có xu hướng xấu đi, ảnh hưởng tiêu cực đến nền tảng phát triển dài hạn.
Trước những thách thức nêu trên, để đạt được mục tiêu tăng trưởng như kỳ vọng, Việt Nam cần thực hiện các cải cách cơ cấu sâu rộng, hướng tới tăng trưởng bền vững và xây dựng một nền kinh tế nội địa có khả năng chống chịu tốt hơn. Việc chỉ dựa vào nới lỏng chính sách tiền tệ là không đủ.
Khái niệm “bẫy thu nhập trung bình” ngày càng bộc lộ sự bất cập khi quá nhấn mạnh vào mục tiêu tăng trưởng, nhiều khi bằng mọi giá để đạt được các nấc thang thu nhập cao hơn. Cách tiếp cận này đã dẫn đến việc nhiều quốc gia theo đuổi mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư và xuất khẩu như một khuôn khổ chính sách chủ đạo, trong khi lại xem nhẹ các yếu tố ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển bền vững.
Thực tế cho thấy, tăng trưởng thiếu kiểm soát, dù đạt được mức thu nhập cao, vẫn có thể kéo theo những bất ổn về tài chính, môi trường và xã hội.
Khi nền kinh tế quá phụ thuộc vào vốn đầu tư và xuất khẩu, nhưng không đi kèm với cải thiện năng suất, kiểm soát lạm phát hay bảo vệ môi trường, thì nguy cơ rơi vào “bẫy phát triển” là rất rõ ràng: Thu nhập tăng nhưng chất lượng tăng trưởng suy giảm, nền tảng vĩ mô thiếu ổn định, và các vấn đề xã hội xuất hiện.
Trên thực tế, cho dù có tăng trưởng hai con số, mà không bảo đảm được các yếu tố vĩ mô, ví dụ như không kiểm soát được lạm phát dưới 5% thì chắc chắn không thể đạt được mục tiêu là nước thu nhập cao vào năm 2045.
Ngược lại, một chiến lược tăng trưởng thận trọng, duy trì tốc độ từ 7–8% mỗi năm, nhưng kiểm soát được lạm phát dưới 3% một cách ổn định, thì không những sẽ đạt được mục tiêu là nước thu nhập cao vào năm 2045, mà quan trọng hơn còn tạo nền tảng vững chắc cho tiến trình chuyển đổi cơ cấu và nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Trong bối cảnh toàn cầu nhiều biến động, việc tái định hình tư duy phát triển – từ tăng trưởng bằng mọi giá sang tăng trưởng có kiểm soát, có chiều sâu – là yêu cầu cấp thiết để Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao một cách thực chất và bền vững.
Do vậy, Việt Nam cần bổ sung cho chiến lược tăng trưởng hiện nay bằng việc phát triển một nền kinh tế nội địa vững mạnh, có khả năng tạo ra cả cung và cầu từ bên trong.
Trọng tâm của quá trình chuyển đổi này là xây dựng một khu vực kinh tế tư nhân năng động, có khả năng tạo ra hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, góp phần nâng cao năng suất và thúc đẩy tăng trưởng toàn diện.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Cường
Nguyên Tư vấn viên Liên Hợp Quốc (UN)
LG Innotek vừa nhận khoản vay liên kết phát triển bền vững (SLL) trị giá 200 triệu USD từ Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) để xây nhà máy thứ ba tại Hải Phòng.
G42 hiện sở hữu 60% Khazna Data Centers – trung tâm dữ liệu lớn nhất khu vực Trung Đông, với 30 cơ sở đang vận hành (công suất 268 MW) và 130 MW đang xây dựng.
Ba dị biệt này cho thấy những bất cập căn bản của thể chế kinh tế, do rào cản tư duy về hệ tư tưởng sẽ đặt ra nhiều thách thức ở phía trước và làm chậm tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng, Nguyên Cục trưởng Cục Thống kê chỉ ra.
Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu rà soát toàn bộ hạ tầng số ở cơ sở, công trình nào đầu tư mà không hoạt động phải “khoanh lại”, tránh lãng phí.