Kinh doanh & Thị trường 04/11/2025 14:55

[Tổng thuật] Phiên 3 VIF 2026: Thị trường tài chính - Trụ cột và động lực tăng trưởng Việt Nam

Phiên 3 với chủ đề “Thị trường tài chính – Trụ cột và động lực tăng trưởng Việt Nam” sẽ tập trung làm rõ vai trò của ngành ngân hàng trong mục tiêu tăng trưởng hai chữ số, không chỉ là “mạch máu vốn” của nền kinh tế, mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi số và lan tỏa động lực sang khối doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME).

Phiên thảo luận số 3 với chủ đề “Thị trường tài chính – Trụ cột và động lực tăng trưởng Việt Nam” sẽ tập trung làm rõ vai trò của ngành ngân hàng trong mục tiêu tăng trưởng hai chữ số, không chỉ là “mạch máu vốn” của nền kinh tế, mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi số và lan tỏa động lực sang khối doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME).

Trong bối cảnh nhiều cơ hội đi kèm thách thức, các ngân hàng Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ, tái cấu trúc mô hình hoạt động để thích ứng. Xu hướng phát triển mô hình tập đoàn tài chính đa năng – kết hợp ngân hàng, công ty chứng khoán, bảo hiểm, thậm chí tài sản mã hoá – đang nổi lên rõ nét. Các chuyên gia sẽ phân tích nguyên nhân và động lực đằng sau xu hướng này, cũng như đánh giá tính tất yếu của nó trong chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam.

Một nội dung đáng chú ý khác là mối quan hệ chặt chẽ giữa ngân hàng và thị trường bất động sản – hai khu vực có ảnh hưởng sâu rộng đến ổn định tài chính vĩ mô. Phiên thảo luận sẽ chỉ ra những bài toán cần giải để giảm rủi ro lan truyền, hướng tới một thị trường tài chính phát triển lành mạnh, bền vững.

Ngoài ra, các chuyên gia cũng sẽ bàn về khung chính sách cho IFC và tài sản mã hoá, đánh giá triển vọng và cơ hội đầu tư dài hạn của Việt Nam trong quá trình hội nhập tài chính quốc tế.

Phiên thảo luận sẽ có sự góp mặt của nhiều chuyên gia hàng đầu, uy tín trong ngành tài chính:

  • Điều phối phiên: PGS TS. Nguyễn Hữu Huân, Thành viên Tổ Tham mưu Thành lập Trung tâm Tài chính Quốc tế tại TP HCM

  • Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam
  • TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni

  • TS. Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế

 

PGS TS. Nguyễn Hữu Huân, Thành viên Tổ Tham mưu Thành lập Trung tâm Tài chính Quốc tế tại TP HCM: 

Để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế 10% (tức tăng trưởng hai con số) từ năm 2026 trở đi và duy trì tốc độ đó trong 20 năm liên tục đến 2045 nhằm giúp Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình thì đòi hỏi cần lượng vốn rất lớn. Chính vì thế, trong phiên thứ 3 của buổi chiều ngày hôm nay, chúng ta sẽ cùng bàn về chủ đề "Thị trường tài chính – trụ cột và động lực tăng trưởng của Việt Nam".

Hệ thống tài chính bao gồm thị trường tài chính và các định chế tài chính trung gian. Trong đó, ngân hàng hiện nay đóng vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ về vốn cho nền kinh tế.

Đặc biệt, ở Việt Nam, nền kinh tế là bank-based system - tức hệ thống tăng trưởng và huy động vốn dựa vào ngân hàng khá nhiều. Hiện nay, tỷ lệ dư nợ trên GDP đã vượt 130%, cho thấy vai trò của ngân hàng trong hệ thống tài chính của chúng ta là rất lớn.

Hiện nay, Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng hai chữ số trong chu kỳ tới. Theo ông Nguyễn Tú Anh, ngân hàng sẽ đóng vai trò như thế nào trong việc hiện thực hóa những kế hoạch đó? 

 

TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni: Muốn tăng trưởng thì cần rất nhiều thứ, trong đó vốn là yếu tố vô cùng quan trọng, bên cạnh các yếu tố lao động, khoa học, thể chế, môi trường…

Giả sử chúng ta đặt bài toán tăng trưởng 10% từ nay đến năm 2030, tức 5 năm nữa, đây là tăng trưởng thực. Nếu cộng thêm khoảng 3% lạm phát thì tăng trưởng danh nghĩa vào khoảng 13%.

Để đạt được mức này, thông thường tăng trưởng tín dụng phải vượt qua tăng trưởng của GDP danh nghĩa khoảng 3 điểm phần trăm. Mức này là khá an toàn, nên du di tôi lấy 2 điểm phần trăm, thì tăng trưởng tín dụng đâu đấy cần đạt khoảng 15%/năm, từ nay đến 2030.

Như vậy, trong 5 năm tới, tín dụng sẽ phải tăng gấp đôi. Khi đó, quy mô tài sản của ngân hàng, vốn chủ sở hữu và các yếu tố liên quan khác cũng sẽ tăng tương ứng. Rõ ràng vai trò của hệ thống ngân hàng là vô cùng quan trọng.

Thứ hai, chúng ta là hệ thống bank-based và tôi nghĩ trong 15 năm tới vẫn sẽ là bank-based. Thị trường vốn có thể phát triển và đồng hành nhưng với các nền kinh tế Đông Á hay thậm chí ngay cả ở Mỹ thì ngân hàng vẫn có lợi thế hơn trong việc cung cấp vốn cho nền kinh tế.

Bản chất của thị trường tài chính là kinh doanh rủi ro, trong đó ngân hàng là nơi chuyên môn hóa trong việc thu thập, xử lý thông tin và quản lý rủi ro. Cùng với sự phát triển của công nghệ số, việc này càng ngày càng có thể làm được với quy mô lớn hơn, chi phí rẻ hơn và tiếp cận được nhiều cá nhân hơn. Do đó, chi phí quản lý vốn và rủi ro của ngân hàng ngày càng hiệu quả hơn.

Trong khi đó, bản chất của thị trường vốn là các cá nhân phải tự "deal rủi ro" (đánh giá, quản lý và giảm thiểu rủi ro). Điều này quá lớn, đặc biệt đối với thị trường đang phát triển như Việt Nam thì rủi ro càng lớn. Bởi hệ thống quản trị và pháp luật của chúng ta chưa đủ chặt chẽ để hạn chế rủi ro đó.

Do vậy, dù chúng ta rất mong muốn thị trường vốn phát triển để chia sẻ gánh nặng với hệ thống ngân hàng, nhưng trong trung hạn, tôi cho rằng vai trò của ngân hàng vẫn là tối quan trọng.

Một trong những cơ hội rất lớn để phát triển thị trường vốn, theo tôi, là phải chuyên môn hóa, tức là phải có nhiều nhà đầu tư chuyên nghiệp hơn.

Ngoài ra, chúng ta cũng đang nói nhiều về chuyển đổi số. Mục tiêu tăng trưởng 10% trong năm tới sẽ phụ thuộc lớn vào việc chúng ta có thành công trong chuyển đổi số hay không, nhằm để quá trình ra quyết định nhanh hơn và chính xác hơn.

Hiện nay, hệ thống ngân hàng và tài chính đang đi đầu trong chuyển đổi số. Khi họ đi đầu, họ tạo ra hiệu ứng lan tỏa. Ví dụ như trong thanh toán, định danh điện tử (KYC), giúp kích thích các lĩnh vực khác cũng phải chuyển đổi số theo như số hoá trong kế toán, dẫn đến số hoá trong sản xuất…

Ngân hàng cũng đang phát triển mạnh hệ thống API, tức là các nền tảng chia sẻ dùng chung giúp nhiều sáng kiến tài chính mới ra đời từ đó.

Trong tương lai, tôi tin rằng các ngân hàng sẽ ứng dụng ngày càng nhiều hơn các hợp đồng thông minh (smart contracts), những hợp đồng tự động. Điều này sẽ giúp bank ngày càng có lợi thế hơn.

PGS. TS Nguyễn Hữu Huân: Hiện nay, ngân hàng không chỉ đóng vai trò là kênh huy động vốn chủ yếu cho nền kinh tế Việt Nam, mà còn là lực lượng đi đầu trong đổi mới sáng tạo và thúc đẩy quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn tới.

Như TS Nguyễn Tú Anh có nói, những mô hình như open banking hay API cho thấy các ngân hàng ngày nay không chỉ cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán hay tài chính, mà còn cung cấp các dịch vụ liên quan đến công nghệ.

Mô hình mở giúp các định chế khác trong nền kinh tế dễ dàng tiếp cận hơn với dịch vụ ngân hàng, thông qua các nền tảng API và open banking. Những sản phẩm và dịch vụ mới dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại sẽ dần dần thay đổi luật chơi tài chính trong kỷ nguyên mới.

Ở góc độ nhà phân tích nghiên cứu sâu lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam, ông Quản Trọng Thành đánh giá như thế nào về thực trạng vai trò của ngành ngân hàng trong bối cảnh mới hiện nay? Liệu rằng những vai trò mới này có tạo ra sự phân hoá rõ nét giữa các ngân hàng với nhau (giữa các Big4, nhà nước – cổ phần, quy mô lớn – nhỏ)? Ví dụ như VietinBank dường như đang có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn so với 3 Big4 còn lại khi tín dụng tăng tới 15,6% đưa quy mô tài sản ngân hàng tăng gần 16%.

 

Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam: Thứ nhất, chúng ta thấy rằng vai trò của ngân hàng đối với nền kinh tế luôn luôn là kênh dẫn vốn quan trọng nhất. 

Đánh giá sâu hơn về con số tỷ lệ tín dụng của Việt Nam/GDP khoảng 134%, trong giai đoạn từ năm 2013 đến trước năm 2022, tín dụng tăng mạnh chủ yếu đến từ cho vay bán lẻ, cho vay doanh nghiệp trên GDP chiếm tỷ trọng không quá lớn. Nếu so sánh con số này với các thị trường khác, đây vẫn là một tỷ lệ rất an toàn và còn dư địa để phát triển thêm.

Sau năm 2022, có những biến cố về vĩ mô khiến nhu cầu vay của cá nhân chậm lại. Từ năm 2024 đến nay, cho vay doanh nghiệp đang trở thành động lực chính của tăng trưởng tín dụng, và tôi cho rằng đó là hướng đi đúng. Trong cho vay doanh nghiệp nói chung, chúng ta có thể nhìn vào quy mô đầu tư để biết ngân hàng cho vay như thế nào.

Trong giai đoạn 2020 - 2024, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 682 tỷ USD. Nếu phân theo ngành nghề, lĩnh vực lớn nhất là sản xuất - đầu tư vào sản xuất chiếm tỷ trọng cao nhất.

Nếu chia theo khu vực đầu tư có Chính phủ, khu vực tư nhân và doanh nghiệp nước ngoài (FDI). Trong mảng đầu tư sản xuất, khu vực FDI chiếm phần lớn và thường vay vốn từ ngân hàng quốc tế hoặc ngân hàng của nước họ.

Phần còn lại, khoảng 44%, đến từ các ngân hàng trong nước. Trong nhóm này, ba ngân hàng thương mại Nhà nước gồm VietinBank, Vietcombank và BIDV chiếm tới 60% nên không gian còn lại cho các ngân hàng tư nhân là rất nhỏ. Các ngân hàng tư nhân buộc phải mở rộng sang mảng cho vay bán lẻ. Họ đã và đang làm điều này rất mạnh mẽ.

Ở mảng cho vay doanh nghiệp, phần nổi bật là bất động sản – một nhu cầu rất lớn ở Việt Nam, từ các chủ doanh nghiệp có tích lũy tài sản đến người dân bình thường đều có nhu cầu đầu tư. Do đó, ngân hàng tất yếu phải tham gia tài trợ cho lĩnh vực này.

Có thể thấy dư địa cho vay doanh nghiệp vẫn còn rất lớn, với tỷ lệ cho vay doanh nghiệp trên GDP dưới 80%, ở mức lành mạnh.

Hướng đi tiếp theo là mở rộng cho vay sản xuất. Khi chúng ta bước vào giai đoạn tăng trưởng mạnh, hướng tới mục tiêu trên 10% GDP và lấy doanh nghiệp tư nhân làm chủ lực. Cho vay sản xuất sẽ là nơi mở rộng quy mô, tuy nhiên, đây là câu chuyện dài hạn – cần 5 đến 10 năm để chuyển dịch dần.

Trong ngắn hạn, động lực cho vay sẽ đến từ mảng hạ tầng và năng lượng. Những năm gần đây, quy mô đầu tư vào các lĩnh vực này còn nhỏ, nhưng trong 5 năm tới, theo kế hoạch tăng trưởng GDP 10% và tính toán của Bộ Tài chính, tổng vốn đầu tư cần khoảng 1.400 tỷ USD, tức bình quân mỗi năm khoảng 280 tỷ USD. Trong đó, nguồn vốn FDI chỉ chiếm 24–30 tỷ USD, còn lại hơn 250 tỷ USD phải đến từ khu vực trong nước – bao gồm Chính phủ và doanh nghiệp tư nhân.

Chính phủ hiện đang khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư hạ tầng và năng lượng. Tôi cho rằng “miếng bánh” này đang mở rộng và mức độ tham gia của doanh nghiệp tư nhân cũng ngày càng tăng.

Trong hai năm gần đây, rất nhiều doanh nghiệp tư nhân đã tham gia xây dựng đường sá, công trình hạ tầng, và gần đây bắt đầu mở rộng sang mảng năng lượng. Khi doanh nghiệp tư nhân tham gia, ngân hàng cũng sẵn sàng tài trợ.

Ngay cả những ngân hàng thận trọng nhất như Vietcombank cũng sẵn sàng tham gia cho vay hạ tầng. Quan trọng là họ lựa chọn được doanh nghiệp tư nhân đủ năng lực để triển khai dự án.

Đúng như có diễn giả sáng nay nói, cho vay hạ tầng có thời hạn rất dài – đặc biệt với dự án năng lượng. Tuy nhiên, với các dự án hạ tầng ngắn hạn như xây dựng tuyến đường, nếu thời gian thi công chỉ 1–3 năm thì ngân hàng hoàn toàn có thể cân đối nguồn vốn để tài trợ.

Tôi muốn nhấn mạnh ngân hàng sẽ tiếp tục là kênh dẫn vốn cực kỳ quan trọng cho nền kinh tế, và trong giai đoạn tới, vai trò này còn lớn hơn nữa.

Ở góc độ chuyển đổi số, ngân hàng là ngành có dữ liệu cấu trúc tốt, có nhân lực và gần với cơ quan quản lý nên có khả năng đi đầu trong quá trình chuyển đổi số. Hiện nay, ngân hàng là ngành đang áp dụng chuyển đổi số nhiều nhất, cả trong vận hành nội bộ lẫn cung cấp dịch vụ cho khách hàng.

Hiện Chính phủ đặt mục tiêu hai triệu doanh nghiệp vào năm 2030. Vậy nó sẽ đến từ đâu? Nó phải đến từ sự lớn lên của các hộ kinh doanh và bản thân các doanh nghiệp SME hiện tại cũng sẽ phải phát triển dần lên.

Tôi thấy rằng gần đây có những ngân hàng như ACB, MB rất tích cực trong việc hỗ trợ các hộ kinh doanh chuẩn chỉ về mặt số liệu. Chính những dữ liệu này sẽ là nguồn thông tin đầu vào để các ngân hàng sử dụng hệ thống big data, trí tuệ nhân tạo (AI) nhằm xây dựng các mô hình định giá tín nhiệm. Qua đó, mở ra không gian đầu tư sẽ được mở rộng dần lên. Tôi cho rằng đây là vai trò mà các ngân hàng đang thể hiện rất tốt.

Về mức độ phân hóa, có thể thấy doanh nghiệp tư nhân đang là lực lượng tiên phong, thì đi cùng với họ chắc chắn sẽ là các ngân hàng tư nhân.

Các ngân hàng tư nhân sẽ có tốc độ tăng trưởng rất tốt trong giai đoạn 5 năm tới. Tôi gọi đây là giai đoạn “công tư kiến quốc”, trong đó khối ngân hàng tư nhân sẽ là nhóm có bước phát triển vượt trội. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò của các ngân hàng thương mại nhà nước.

Thực tế, các ngân hàng nhà nước vẫn sẽ là trụ cột quan trọng của hệ thống. Khi Ngân hàng Nhà nước muốn hỗ trợ thanh khoản cho thị trường, họ vẫn chủ yếu thực hiện thông qua các ngân hàng thương mại nhà nước lớn, bằng cách bơm vốn ra với mức lãi suất hợp lý.

Một vai trò cực kỳ quan trọng khác của khối ngân hàng thương mại nhà nước mà tôi muốn nhấn mạnh là trong bối cảnh nhu cầu vốn cho nền kinh tế lên tới 1.400 tỷ USD trong 5 năm tới, nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước thì chắc chắn không đủ. Chúng ta cần huy động được nguồn vốn từ nước ngoài.

Để làm được điều đó, Việt Nam cần tiếp tục các nỗ lực như nâng hạng thị trường chứng khoán – đây là một biện pháp quan trọng, cùng với việc phát triển thị trường trái phiếu cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, muốn thị trường trái phiếu đủ rộng, đủ sâu, có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài với chi phí vốn hợp lý, thì trước hết chúng ta phải nâng hạng tín nhiệm quốc gia.

Muốn nâng hạng tín nhiệm quốc gia, sức khỏe của hệ thống ngân hàng phải được cải thiện, thể hiện rõ qua tỷ lệ an toàn vốn (CAR). Một trong những đánh giá của các tổ chức quốc tế cho thấy tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng Việt Nam – đặc biệt là khối ngân hàng thương mại nhà nước – hiện vẫn còn thấp.

Vì vậy, vai trò quan trọng hiện nay là phải tăng cường sức mạnh tài chính cho nhóm ngân hàng nhà nước, đặc biệt là cho phép họ chủ động hơn trong việc quản lý lợi nhuận.

Năm nay, chúng tôi thấy VietinBank tăng trưởng lợi nhuận rất tốt, và chính phần lợi nhuận giữ lại đó giúp nâng cao tỷ lệ an toàn vốn, qua đó hỗ trợ khả năng tăng trưởng tín dụng. Tôi hy vọng các ngân hàng thương mại nhà nước khác như Vietcombank và BIDV cũng sẽ có được tâm lý và khả năng tương trưởng về mặt lợi nhuận và hỗ trợ tín dụng như thế cho năm sau.

PGS. TS Nguyễn Hữu Huân: Với kinh nghiệm quốc tế tại ADB, theo ông đâu là nguyên nhân thúc đẩy nhiều ngân hàng lựa chọn con đường phát triển mô hình tập đoàn tài chính và đây có phải là xu hướng tất yếu của ngành ngân hàng trong bối cảnh hiện nay?

 

TS. Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế: Thực tế, ngân hàng hay hệ thống tài chính chỉ là tấm gương phản ánh cấu trúc của nền kinh tế thực. Chính vì vậy, có thể thấy rằng kể từ khi đổi mới, cấu trúc nền kinh tế thực của Việt Nam sau mấy chục năm vẫn “chưa trưởng thành”.

Chúng ta phấn đấu mãi để đạt 1 triệu doanh nghiệp, đến nay dù đặt mục tiêu 2 triệu thì thực tế mới chỉ có khoảng 1 triệu doanh nghiệp, trong đó đa số là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Bên cạnh đó, chúng ta có khoảng 5 triệu hộ kinh tế gia đình, còn khu vực kinh tế phi chính thức chỉ có 35 - 45 triệu lao động.

Cấu trúc đó vẫn duy trì và điều đó phản ánh rõ trong hệ thống tài chính. Với nhu cầu vốn rất đơn giản, các hộ kinh tế gia đình hay doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ không có nhu cầu vay vốn qua thị trường vốn. Đây vốn là kênh phức tạp mà chủ yếu dựa vào ngân hàng.

Để thay đổi cơ cấu hệ sinh thái tài chính của Việt Nam thì phải bắt đầu từ việc thay đổi cơ cấu nền kinh tế và để thay đổi được cơ cấu nền kinh tế Việt Nam thì còn rất lâu. Vì vậy, ngân hàng vẫn tiếp tục đóng vai trò trụ cột.

Những nghị quyết về phát triển doanh nghiệp tư nhân là vô cùng quan trọng, bởi đó là động lực để thay đổi cơ cấu kinh tế Việt Nam. Nếu chúng ta không thay đổi được cơ cấu kinh tế thì hệ sinh thái tài chính vẫn như cũ, tức là tiếp tục phụ thuộc vào ngân hàng, dù ngân hàng vẫn là kênh dẫn vốn rất quan trọng.

Điểm thứ hai, vấn đề tỷ lệ tín dụng trên GDP rất quan trọng nhưng hơn hết là tín dụng đi về đâu và được sử dụng như thế nào. Tín dụng chảy vào đâu thì chúng ta đều biết, bởi cơ cấu nền kinh tế hiện nay rất đơn giản, cả về đối tượng tham gia lẫn ngành nghề, chỉ xoay quanh vài lĩnh vực như: Bất động sản, ngân hàng, chứng khoán.

Tỷ lệ tín dụng trên GDP là một chỉ số quan trọng để đo sức khỏe hệ thống ngân hàng, nhưng không phải là chỉ số duy nhất. Điều đáng chú ý là tín dụng được sử dụng ra sao và trong khoảng thời gian nào.

Ví dụ, chúng ta thường nói đến vốn ngắn hạn và cho vay dài hạn, nhưng nếu một dự án chỉ kéo dài 2 – 3 năm thì vốn ngắn hạn vẫn có thể đáp ứng. Ở Trung Quốc, tiêu chuẩn xây dựng hạ tầng của họ chỉ 2 – 3 năm là hoàn thành một sân bay, chậm nhất là 3 năm.

Vì vậy, trong vòng 15 năm họ hoàn thiện toàn bộ hệ thống đường sắt cao tốc. Khi tốc độ thực hiện nhanh như vậy, vay ngân hàng bằng vốn ngắn hạn vẫn hợp lý. Cho nên vấn đề cốt lõi là hiệu quả sử dụng vốn.

Sẽ có một độ “vênh” rất lớn khi đặtphát triển tập đoàn tài chính trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa trưởng thành, bởi ngân hàng phát triển nhanh hơn nhiều so với nền kinh tế thực.

Thực ra, xu hướng hình thành các tập đoàn tài chính (financial conglomerate) là tất yếu. Không chỉ trong ngân hàng mà ở nhiều lĩnh vực khác như bất động sản,  khi tích tụ đủ vốn và năng lực, doanh nghiệp đều có xu hướng đa ngành.

Ngân hàng hiện cũng đi đầu trong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, tín dụng xanh... nên nhu cầu mở rộng sang các lĩnh vực như quản lý quỹ, chứng khoán, bảo hiểm là tự nhiên.

Tuy nhiên, so với mức độ cải cách và phát triển của nền kinh tế, sẽ có độ vênh rất lớn. Nghĩa là chúng ta sẽ có các tập đoàn tài chính lớn xoay quanh “core business” là ngân hàng, nhưng trong khi đó nền kinh tế thực vẫn rất đơn giản.

Điều này đặt ra hai vấn đề. Thứ nhất, cần xem xét việc phát triển tập đoàn tài chính sẽ hỗ trợ quá trình chuyển đổi kinh tế như thế nào, và đóng góp ra sao trong việc mở rộng cơ cấu khách hàng (client base). Thứ hai là vấn đề quản lý. Cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam dù đã có cải tổ, nhưng tốc độ vẫn chậm so với sự phát triển của hệ thống ngân hàng.

Câu hỏi đặt ra là: Liệu chúng ta có đang ở giai đoạn “financial deregulation”, tức là nhà nước nên giảm dần vai trò can thiệp, hướng tới tự do hóa tài chính, hay vẫn cần tiếp tục ban hành các nghị định để quản lý chặt các tập đoàn tài chính đa ngành? Đây là vấn đề lớn, bởi khó có thể dung hòa giữa một bên là các tập đoàn tài chính phát triển mạnh, đa ngành, và một bên là năng lực quản lý của nhà nước vốn có giới hạn.

Thực tế, ngay cả khi chưa có những tập đoàn tài chính quy mô lớn, chúng ta đã thấy rõ giới hạn đó. Vậy nếu các tập đoàn này phát triển mạnh, liệu nhà nước có quản lý nổi không? Và nếu không, nguy cơ như sở hữu chéo, rủi ro hệ thống... hoàn toàn có thể xảy ra.

Tóm lại, xu hướng phát triển tập đoàn tài chính là tất yếu, nhưng vấn đề là nó sẽ hỗ trợ nền kinh tế như thế nào và năng lực quản lý của nhà nước có theo kịp không.

Trên thế giới hiện có hai mô hình. Một là mô hình của Mỹ, Trung Quốc và một số nước châu Á, tức là phát triển các siêu tập đoàn tài chính. Hai là mô hình của các nước Bắc Âu, tức là không nhất thiết có các siêu tập đoàn, mà tập trung chuyên sâu vào từng lĩnh vực (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm...) với hệ thống quản trị hiệu quả. Mô hình tập đoàn tài chính thường đi kèm vai trò “kiến tạo” của nhà nước, thay vì quản lý chặt chẽ. Ngược lại, mô hình chuyên sâu đòi hỏi hệ thống giám sát chặt nhưng linh hoạt.

PGS. TS Nguyễn Hữu Huân: Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, chúng ta nên đi theo mô hình nào? Mô hình các siêu tập đoàn tài chính như Mỹ, Anh, hay mô hình chuyên sâu như các nước Bắc Âu?

TS. Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế: Cơ cấu thực của nền kinh tế mới là yếu tố quyết định mô hình tài chính. Khi cơ cấu kinh tế của chúng ta vẫn chưa thực sự phát triển, vẫn dựa vào những thành phần kinh tế đơn giản, FDI vẫn là chủ đạo, các sản phẩm tài chính vẫn chủ yếu xoay quanh bất động sản, ngân hàng, chứng khoán... thì nhu cầu có các tập đoàn tài chính lớn có thể chưa thật sự xuất hiện. Nếu có, thực tế là nó đã và đang hình thành, nhưng sẽ có xu hướng tập trung cao, dễ dẫn đến sự lệch pha so với nền kinh tế thực.

PGS. TS Nguyễn Hữu Huân: Quan sát thực tế các ngân hàng hiện nay, theo các chuyến gia, liệu có rào cản nào đối với mô hình tập đoàn tài chính này? 

Ông Quản Trọng Thành: Nếu nhìn góc độ về nhu cầu, xu hướng hình thành tập đoàn tài chính là tất nhiên, chúng ta không phải nước đầu tiên, nếu nhìn sang các nước Đông Á, chúng ta thấy rằng khái niệm “tập đoàn tài chính” bắt đầu hình thành từ những năm 2000.

Ở những quốc gia như Đài Loan, Hàn Quốc hay khu vực Hồng Kông, khi đó đã có nhiều tranh luận về việc có nên hay không nên theo mô hình tập đoàn tài chính. Tuy nhiên, thực tế cho thấy mô hình này vẫn tồn tại và phát triển, bởi nó xuất phát từ nhu cầu thực tế của thị trường.

Đối với các ngân hàng Việt Nam hiện nay, tôi nhận thấy xu hướng phát triển theo hướng tập đoàn tài chính cũng đã bắt đầu hình thành từ khá lâu, đặc biệt là ở các ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán.

Nhiều ngân hàng đã xây dựng mô hình với đầy đủ các mảng: ngân hàng, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ, chứng khoán, công ty quản lý quỹ và sắp tới còn mở rộng sang lĩnh vực tài sản số. Việc hình thành mô hình này, theo tôi, xuất phát từ nhu cầu tự nhiên của thị trường.

Từ góc nhìn của một cá nhân, khi quá trình tích sản đạt đến một giai đoạn nhất định, ngoài việc gửi tiết kiệm, người ta sẽ muốn đầu tư vào bất động sản, trái phiếu, cổ phiếu và sắp tới là cả tài sản số. Vậy tổ chức nào có thể đáp ứng được tất cả các nhu cầu đó, với nguồn lực về vốn và nhân sự đủ mạnh? Tôi cho rằng chỉ có ngân hàng mới có thể làm được điều này.

Nếu nhìn ở góc độ cá nhân là một chủ doanh nghiệp, ở giai đoạn còn là hộ kinh doanh hay SME, họ chỉ cần những dịch vụ ngân hàng cơ bản. Nhưng khi doanh nghiệp phát triển hơn, họ sẽ cần các dịch vụ cao cấp hơn, gọi là Private Banking.

Private Banking là một phần trong hoạt động Wealth Management. Wealth Management không chỉ cung cấp dịch vụ giúp khách hàng phát triển hoạt động kinh doanh, mà còn tư vấn phân bổ tài sản cá nhân, tài sản gia đình sao cho hiệu quả và hợp lý nhất.

Hiện nay, nhu cầu về quản lý tài sản ngày càng đa dạng, bao gồm nhiều lớp tài sản khác nhau. Vì vậy, bất kỳ ngân hàng nào muốn tham gia nghiêm túc vào lĩnh vực Wealth Management đều phải có xu hướng hướng tới mô hình tập đoàn tài chính.

Ở giai đoạn này, các lớp tài sản truyền thống như bất động sản, cổ phiếu, trái phiếu đã đòi hỏi kiến thức chuyên môn, trong khi tài sản số – xu hướng sắp tới – còn phức tạp hơn rất nhiều. Do đó, các ngân hàng cần có đội ngũ chuyên viên tư vấn và quản lý tài sản chuyên nghiệp.

Hiện nay, tìm kiếm và đào tạo nhân lực cho mảng này là một trong những bài toán khó nhất đối với các ngân hàng đang muốn xây dựng mô hình tập đoàn tài chính.

Nhiều ngân hàng từng không có công ty chứng khoán, nay phải thành lập lại; hoặc trước đây liên kết với công ty bảo hiểm, thì nay tách ra để tự thành lập công ty bảo hiểm riêng.

Để chuẩn bị cho bước chuyển đổi này, các ngân hàng tiên phong đã bắt đầu xây dựng và đào tạo đội ngũ tư vấn nội bộ, thường mất khoảng hai năm để “xây quân”.

Tôi cho rằng trong giai đoạn tới, cuộc cạnh tranh trong việc thu hút và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho mảng này sẽ là một thách thức rất lớn đối với các ngân hàng.

TS. Nguyễn Tú Anh: Tôi nghĩ việc hình thành nên tập đoàn tài chính là cần thiết, quan trọng là quy mô như thế nào, xuất phát từ hai yếu tố quan trọng. Thị trường ngân hàng sẽ là chủ đạo, song chúng ta gặp phải thách thức là ngân hàng cung cấp vốn dài hạn rất khó khăn, chủ yếu cung cấp ngắn hạn, trong khi nhu cầu của đất nước lại cần vốn dài hạn rất lớn. 

Vậy đâu là yếu tố bắc cầu giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn? Chúng ta cần phải có các ngân hàng đầu tư. Cho đến nay, chúng ta chưa có luật về ngân hàng đầu tư, chính điều này tạo ra khoảng trống pháp luật, gây rủi ro cho các ngân hàng, thâm chí rủi ro cho cả nền kinh tế vi mô. Tôi nghĩ việc có những hành lang pháp luật để thành lập ra các ngân hàng đầu tư là rất cần thiết.

Ngân hàng đầu tư nếu tồn tại sẽ giúp chúng ta giải quyết hai vấn đề. Thứ nhất, sẽ giải quyết được việc chứng khoán hóa các khoản vay, chúng ta có thể chuyển các cái khoản vay dài hạn của hệ thống ngân hàng cho các dự án lớn như như hạ tầng (ví dụ tài trợ rồi và sau khi xây xong trong hai năm, bắt đầu đi vào hoạt động thì chứng khoán hóa giúp bán được trên thị trường).

Như vậy, ngân hàng có thể rút được tiền ngắn hạn và cuối cùng lại đầu tư vào những cái dự án khác, giúp tạo sự kết nối giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn rất chặt chẽ.

Thứ hai, giúp giải quyết được một vấn đề lớn khác:Luật quy định ngân hàng được đầu tư vào doanh nghiệp không vượt quá 11% tổng số vốn nhưng phải sự đồng ý của ngân hàng nhà nước, còn như thế nào để ngân hàng nhà nước đồng ý thì không biết được. Nên là chúng ta chưa làm được. Ví dụ như ở Nhật, họ quy định ngân hàng có được quyền đầu tư vào các doanh nghiệp không quá 5% tổng số vốn.

Nhưng việc cho phép ngân hàng đầu tư vào các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp lớn và có những dự án lớn nó có thể  tác động lan tỏa đến cả nền kinh tế. Đó chính là hành động “skin in the game”, tức là góp xuống tiền, đi cùng tôi và hai bên có chung số phận. Đây là sự cam kết rất lớn của ngân hàng với doanh nghiệp, họ sẵn sàng đầu tư vào dài hạn. Tất cả những thứ đấy nó sẽ giải quyết thông qua hệ thống ngân hàng đầu tư.

Tôi nghĩ trong thời gian tới, chúng ta cần phải hệ thống pháp luật để phát triển ngân hàng đầu tư. Và hệ thống ngân hàng nó sẽ chuyển thành từ ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và thành lập ra một cái gọi là tập đoàn tài chính. Tôi nghĩ điều này sẽ rất là cần thiết cho Việt Nam hiện nay.

PGS. TS Nguyễn Hữu Huân: Việc xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) tại TP HCM và Đà Nẵng đang mở ra nhiều kỳ vọng mới. Theo chuyên gia, điều này mang lại những lợi ích gì cho thị trường vốn, doanh nghiệp và nền kinh tế quốc gia?

TS. Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế: Việt Nam từ lâu đã là một trong những nền kinh tế thu hút FDI rất tốt trong khu vực châu Á và cả trên thế giới, trong khi lúc đó chúng ta chưa có trung tâm tài chính.

Có thể thấy rằng giai đoạn phát triển của Việt Nam, từ khi chúng ta mở cửa cho đến khi ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ, là một chặng đường rất quan trọng. Khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận, sau đó chúng ta ký BTA (Bilateral Trade Agreement – Hiệp định Thương mại song phương với Mỹ), rồi gia nhập WTO, APEC, ASEAN… tất cả những điều đó có thể tạm gọi là giai đoạn “mở cửa”, tức là quá trình tự do hóa thương mại.

Chính quá trình tự do hóa thương mại này đã mang lại rất nhiều lợi ích cho Việt Nam. Thứ nhất, Việt Nam vươn lên trở thành một trong những trung tâm thu hút FDI hàng đầu thế giới. Thứ hai, thông qua việc gia nhập ASEAN, khi chúng ta ký CEPT (hiệp định về thuế quan trong ASEAN) có tính ràng buộc, cùng hàng loạt hiệp định thương mại song phương với Mỹ và các đối tác khác, Việt Nam buộc phải cải cách và mở cửa mạnh mẽ hơn.

Đến nay, kết quả cho thấy dù nền kinh tế Việt Nam chưa phải là một nền kinh tế mở hoàn toàn, nhưng riêng trong lĩnh vực thương mại, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia có độ mở lớn nhất thế giới. Nền kinh tế nói chung thì chưa hẳn nhưng riêng lĩnh vực thương mại thì độ mở rất cao.

Kết quả đó là tổng hợp của quá trình mở cửa, tự do hóa thương mại, gia nhập các định chế song phương và đa phương, cũng như việc thành lập các khu chế xuất… Tất cả đã góp phần giúp Việt Nam trở thành một nền kinh tế có kim ngạch xuất nhập khẩu và độ mở thương mại rất lớn.

Về “bước thứ hai”, liệu chúng ta có nên tiếp tục tiến tới tự do hóa tài chính hay không? Đây vẫn là một câu hỏi mở. Ví dụ, khi chúng ta bàn về việc xây dựng tập đoàn tài chính hay trung tâm tài chính, thì cần đặt vấn đề trong bối cảnh:Lliệu đây có phải là bước phát triển tiếp theo của Việt Nam sau giai đoạn tự do hóa thương mại hay không? Trung tâm tài chính có thể trở thành xuất phát điểm và động lực để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính hay không?

Hiện nay, chúng ta đang kiểm soát dòng vốn, tức là vốn có thể ra vào, nhưng ở mức độ giới hạn, liệu chúng ta có dám mở hoàn toàn dòng vốn? Liệu trung tâm tài chính có thể trở thành nơi thí điểm cho việc mở cửa dòng vốn ra vào tự do hay không?

Theo tôi, chúng ta nên đặt vấn đề này trong bối cảnh đó, chứ không phải chỉ xem việc thành lập trung tâm tài chính là một hành động mang tính “ý chí” như một số ý kiến đã nêu trước đó. Nó phải gắn với một mục đích rõ ràng.

Việt Nam không thiếu vốn. Vào năm 2018, riêng phần vốn chưa giải ngân (backlog) đã lên tới khoảng 20 tỷ USD. Trong thời điểm dịch COVID-19 bùng phát, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có đặt vấn đề về huy động vốn để hỗ trợ nền kinh tế. Nhưng thực tế, chúng tôi đã nói rằng không cần huy động thêm, chỉ cần giải ngân hết 20 tỷ USD này là đủ.

Thực tế, qua kênh trái phiếu doanh nghiệp trong 5 năm vừa qua, trước khi thị trường này gặp vấn đề, Việt Nam đã huy động được một lượng vốn rất lớn, lên tới hàng chục tỷ USD. Do đó, vấn đề không phải là thiếu vốn, mà là chưa sử dụng hết hoặc chưa huy động và phân bổ hiệu quả nguồn vốn trong nước, trong cả thị trường tài chính và thị trường vốn nội địa.

Vì vậy, trung tâm tài chính, tất nhiên sẽ hỗ trợ phần nào trong việc huy động vốn từ bên ngoài nhưng đó chỉ là một trong những mục tiêu. Theo tôi, còn một yếu tố quan trọng hơn là trung tâm tài chính cần được xem là cầu nối, động lực, hay chất xúc tác để Việt Nam cân nhắc việc mở cửa thị trường tài chính và mở ở mức độ nào.

Liệu mô hình trung tâm tài chính có thể giống như mô hình khu chế xuất trước đây, nơi có các cơ chế ưu tiên đặc biệt trong phạm vi khu vực, nhưng ra ngoài khu thì không áp dụng hay không?

Tất nhiên, có rất nhiều bài học kinh nghiệm từ các quốc gia đã xây dựng trung tâm tài chính thành công mà chúng ta có thể học hỏi.

PGS. TS Nguyễn Hữu Huân: Làm thế nào để trung tâm tài chính quốc tế TP HCM hay Đà Nẵng có thể cạnh tranh với các trung tâm tài chính quốc tế trên thế giới?

TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni: Bản thân tôi cũng rất băn khoăn về việc thành lập trung tâm tài chính. Ví dụ, nếu chúng ta thành lập theo mô hình như anh Huân vừa trình bày thì mục đích của chúng ta là thu hút các nhà đầu tư tài chính đến. Vậy câu hỏi đặt ra là họ đến đây sẽn được hưởng lợi gì? Tại sao họ không ở Singapore mà lại sang Việt Nam?

Nếu chúng ta muốn trở thành trung tâm tài chính thì điều đó có nghĩa là chúng ta phải trở thành trung tâm phân phối vốn của khu vực. Để làm được như vậy, chúng ta phải có lợi thế gì đó. Theo tôi, điều này chỉ có thể xảy ra khi thỏa mãn một trong hai điều kiện.

Thứ nhất, Việt Nam là một nước thặng dư vốn, tức là xuất khẩu vốn. Giống như Trung Quốc, họ có thặng dư trong cán cân thanh toán (BOP) trong thời gian dài, tích lũy được nguồn vốn lớn, rồi đẩy qua các trung tâm tài chính như Thượng Hải hoặc Hong Kong. Như vậy, trung tâm tài chính đó trở thành điểm cung ứng vốn cho khu vực. Còn Việt Nam, tôi nghĩ là chúng ta chưa đạt được điều đó.

Thứ hai, chúng ta có thể hy vọng vào sự dịch chuyển trật tự thế giới hiện nay. Rõ ràng, thế giới bây giờ không còn như trước nữa và cái mới thì vẫn chưa hình thành rõ ràng. Chúng ta đang ở trong giai đoạn “cái cũ không còn, cái mới chưa ra”. Tuy nhiên, một trong những khả năng là thế giới có thể đang hình thành một trật tự đa cực.

Nếu điều đó xảy ra thì trung tâm tài chính của Việt Nam có thể tận dụng vị trí để đóng vai trò là “hub” kết nối giữa các cực. Còn nếu nói đến việc cạnh tranh trực tiếp với Singapore, thì hiện tại tôi vẫn chưa nhìn thấy khả năng đó.

Ông Quản Trọng Thành: Tôi thì không nghĩ là mình cứ phải học theo mô hình nào mà trước hết cần xác định xem cái gì phù hợp. Quan trọng nhất của một trung tâm tài chính là chúng ta phải tạo ra được một “luật chơi” sao cho hấp dẫn và tạo được sự tự do nhất định.

Khi nói về lợi thế của Việt Nam, rõ ràng là chúng ta có một nền kinh tế trẻ, năng động và hiện nay đang tiến vào một xu hướng khởi động – đó là tài sản số, hay những gì liên quan đến công nghệ. Đó là việc chúng ta đang đưa ra các đạo luật cho phép các định chế tài chính thử nghiệm những mô hình mới về công nghệ, cụ thể là tài sản số chẳng hạn.

Chúng ta đã biết, năm nay đầu tháng 6, đã có Luật Công nghiệp công nghệ số được ban hành và vừa rồi lại có thêm Nghị quyết 05. Chúng ta đang có những khung pháp lý cho phép các định chế tài chính trong nước và quốc tế được thử nghiệm các mô hình mới.

Tuy nhiên, có một điểm khiến tôi hơi băn khoăn: Tại sao trong Luật Công nghiệp công nghệ số, chúng ta cho phép phát hành đồng tiền ổn định (stablecoin) – tức là đồng tiền trung gian để giao dịch tài sản số – nhưng trong Nghị quyết 05 lại không thấy quy định cho phép phát hành tài sản số dựa trên đồng tiền pháp định? Đây là một điều rất cần thiết.

Hiện nay, rất nhiều nhà đầu tư Việt Nam muốn mua tài sản số, họ phải dùng tiền USD để mua các đồng USDT của một đơn vị trung gian nào đó trên thị trường rồi mới giao dịch. Giá như ở Việt Nam, có một ngân hàng thương mại nhà nước đứng ra làm đơn vị phát hành đồng tiền ổn định đó thì có thể quản lý và giữ được một phần dòng tiền ngoại tệ nhất định trong hệ thống.

Nếu muốn xây dựng trung tâm tài chính, việc đi vào các xu hướng lớn là điều cần thiết, bởi thế giới đang định hình lại trật tự mới, các giao dịch trong đời thực dần được chuyển hóa lên không gian số. Năm 2022, chúng ta đã thấy những bức tranh số được bán với giá hàng chục triệu USD, hay gần đây nhất là nhu cầu đối với Bitcoin tăng lên rõ rệt.

Một người từng phản đối cực kỳ gay gắt đồng tiền này là ông Jamie Dimon – CEO của JP Morgan. Cách đây 7 năm, ông ấy từng nói rằng Bitcoin là “đồng tiền vô lý, chỉ dành cho tội phạm”. Nhưng đến tháng 9 vừa rồi, ông lại tuyên bố rằng các tổ chức được phép sử dụng Bitcoin hoặc Ethereum làm tài sản đảm bảo cho các khoản vay. Tôi thấy rằng tư duy (mindset) của thị trường nhìn chung đã thay đổi rất rõ rệt.

Câu chuyện cốt lõi ở đây là làm sao chúng ta xây dựng được một khung pháp lý rõ ràng, có thể triển khai thực tế. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể hình thành được trung tâm tài chính như mong muốn. Còn phần đầu tư hạ tầng đang rất tích cực và hy vọng tiến triển đúng như kỳ vọng, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là “hạ tầng phần mềm” – liên quan đến luật.

TS. Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế: Điều quan trọng nhất đối với trung tâm tài chính, đặc biệt là ở TP HCM là phải dựa trên lợi thế cạnh tranh riêng của thành phố. Tương tự, với Đà Nẵng, trung tâm tài chính cũng phải dựa trên lợi thế cạnh tranh đặc thù của Đà Nẵng. Chúng ta không thể xây dựng một trung tâm tài chính ở TP HCM hay Đà Nẵng mà lại không dựa trên bất kỳ lợi thế cạnh tranh nào. 

Tóm lại, trung tâm tài chính phải gắn liền với nền kinh tế thực của TP HCM và của Đà Nẵng, từ đó mới có thể phát triển bền vững.

BBT
CÙNG CHUYÊN MỤC
Kinh doanh & Thị trường 04/11/2025 18:54
Kết quả Vietlott Power 6/55 ngày 04/11/2025 cả hai Jackpot khủng vẫn chưa tìm thấy chủ nhân

Trong kỳ quay số mở thưởng sản phẩm Vietlott Power 6/55 hôm nay (04/11/2025), giải thưởng jackpot 1 trị giá gần 50,4 tỷ đồng và Jackpot 2 hơn 3,2 tỷ đồng đều vô chủ.

Kinh doanh & Thị trường 04/11/2025 16:19
[Tổng thuật] Phiên 2 VIF 2026: Bất động sản trong kỷ nguyên mới - Tác động chính sách, hạ tầng và điểm nhấn đầu tư

Phiên 2 VIF 2026 đã diễn ra với chủ đề “Bất động sản trong kỷ nguyên mới - Tác động chính sách, hạ tầng và điểm nhấn đầu tư”.

Kinh doanh & Thị trường 04/11/2025 07:55
Công ty số một về thuốc diệt côn trùng tại Việt Nam trước những cơn bão chuyển đổi số và công nghệ

Dù chưa tham gia vào xu hướng thương mại điện tử, song nhãn hiệu JUMBO VAPE từ công ty Fumakilla Việt Nam vẫn tăng trưởng 100% trong 5 năm vừa qua và nhiều dòng sản phẩm chiếm hơn 50% thị phần ở Việt Nam.

Kinh doanh & Thị trường 04/11/2025 06:45
Các ông lớn bất động sản đua săn quỹ đất sạch

Thị trường bất động sản chứng kiến làn sóng M&A sôi động, khi loạt ông lớn đua thâu tóm quỹ đất sạch nhằm rút ngắn thời gian triển khai và giảm rủi ro.

QUẢNG CÁO
QUẢNG CÁO