Hội nghị giao ban Xúc tiến thương mại với hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài tháng 7/2025. (Ảnh: Nguyễn Ngọc)
Sáng 31/7, tại Hà Nội, Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương tổ chức Hội nghị giao ban Xúc tiến thương mại với hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài tháng 7/2025 với chủ đề “Xúc tiến thương mại, phát triển thị trường cho sản phẩm khoa học công nghệ, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”.
Theo bà Nguyễn Thị Thu Giang, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ Thông tin Việt Nam (VINASA), ngành công nghệ thông tin Việt Nam đang tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu phần mềm và dịch vụ.
Cụ thể, năm 2024, tổng doanh thu toàn ngành đạt khoảng 152 tỷ USD, tăng 7% so với năm 2023. Trong đó, doanh thu từ phần mềm nội địa đạt khoảng 13 tỷ USD, riêng xuất khẩu phần mềm ước đạt 7 tỷ USD.
Cùng với đó, thị trường xuất khẩu phần mềm và giải pháp công nghệ thông tin (CNTT) của Việt Nam đang được mở rộng mạnh mẽ. Trong đó, Mỹ, Nhật Bản và châu Âu tiếp tục là những thị trường trọng điểm trong mảng gia công phần mềm và dịch vụ CNTT. Các thị trường đang phát triển nhanh như Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan cũng đang được nhiều doanh nghiệp Việt hướng đến.
Những thị trường mới như Trung Quốc và Trung Đông cũng đang thu hút sự quan tâm, khi các doanh nghiệp phản ánh tiềm năng tăng trưởng rất lớn trong 2–3 năm tới.
Đặc biệt, thế giới đang bước vào làn sóng chuyển đổi số mạnh mẽ, với các xu hướng công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây… phát triển nhanh chóng và ngày càng được ứng dụng rộng rãi. Đây đều là những lĩnh vực đòi hỏi cao về dịch vụ và nguồn nhân lực công nghệ thông tin.
Chi tiêu cho CNTT toàn cầu dự kiến sẽ tăng trưởng ổn định ở mức 7–9% mỗi năm trong giai đoạn tới. Trong khi đó, nhiều quốc gia phát triển đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng nhân lực số.
"Điều này đang mở ra cơ hội rất rõ ràng cho doanh nghiệp Việt Nam với lợi thế về dân số trẻ, kỹ năng công nghệ ngày càng nâng cao, chi phí cạnh tranh và hệ sinh thái số đang phát triển nhanh. Việt Nam đang dần trở thành điểm đến tiềm năng trong chuỗi cung ứng dịch vụ công nghệ toàn cầu”, bà Giang nêu rõ.
Bà Nguyễn Thị Thu Giang, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ Thông tin Việt Nam. (Ảnh: Chụp từ màn hình)
Còn theo ông Đỗ Ngọc Hưng, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Mỹ, sản phẩm điện - điện tử, linh kiện bán dẫn, thiết bị công nghiệp và giải pháp phần mềm của Việt Nam ngày càng được các doanh nghiệp và nhà nhập khẩu Mỹ quan tâm.
Nhiều tập đoàn lớn tại Mỹ đã thiết lập chuỗi cung ứng hoặc hợp tác phần mềm với doanh nghiệp Việt Nam, tiêu biểu như FPT Software với hơn 10 Văn phòng đại diện tại Mỹ, hiện đang cung cấp dịch vụ cho hàng loạt đối tác thuộc Fortune 500 tại Mỹ trong lĩnh vực tài chính, y tế, hàng không và ô tô.
Việt Nam cũng là đối tác lý tưởng trong chuỗi cung ứng linh kiện cơ khí chính xác, khuôn mẫu, thiết bị phụ trợ, phục vụ các ngành công nghiệp trọng yếu của Mỹ như ô tô điện, quốc phòng, y tế và hàng không.
Vì vậy, bên cạnh xuất khẩu hàng hóa, Thương vụ Việt Nam tại Mỹ cũng đang tích cực hỗ trợ doanh nghiệp Việt mở rộng hiện diện tại thị trường này. Các cơ quan đại diện thường xuyên kết nối với các đối tác công nghệ như Quỹ Khoa học quốc gia (NSF), Viện Tiêu chuẩn Đo lường quốc gia (NIST), các trường đại học lớn, và nhiều doanh nghiệp công nghệ hàng đầu của Mỹ.
"Thương vụ cũng đang phối hợp chặt chẽ với Bộ Thương mại Mỹ (BIS) để đẩy nhanh thủ tục cấp phép nhập khẩu chip bán dẫn cho doanh nghiệp Việt, qua đó thúc đẩy sản xuất và nâng cao giá trị chuỗi cung ứng công nghệ cao", ông Hưng thông tin.
Nhiều thách thức khi tiếp cận thị trường quốc tế
Tuy nhiên, ông Hưng cũng lưu ý rằng những quy định, chính sách, luật pháp của Mỹ về sở hữu trí tuệ, an ninh mạng và an ninh quốc gia, kiểm sát xuất khẩu công nghệ ngày càng khắt khe, đặc biệt việc cắt giảm các quỹ hỗ trợ nước ngoài.
Vì vậy, ông Đỗ Ngọc Hưng đề xuất 5 định hướng nhằm tăng cường hợp tác công nghệ giữa hai nước. Thứ nhất, đẩy mạnh kết nối doanh nghiệp hai nước trong các lĩnh vực ưu tiên như ô tô điện, phần mềm, điện tử, chip bán dẫn, AI và công nghệ môi trường. Việt Nam có thể xúc tiến hợp tác với các tập đoàn lớn như Tesla trong cung ứng linh kiện, pin và giải pháp giao thông xanh.
Thứ hai, hỗ trợ doanh nghiệp Việt như FPT, Viettel, Hiệp hội công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI) mở rộng hiện diện tại Mỹ thông qua chi nhánh, trung tâm R&D và phân phối. Đồng thời, cần rút ngắn thủ tục cấp phép nhập khẩu chip bán dẫn từ Mỹ.
Thứ ba, phối hợp tổ chức đoàn doanh nghiệp tham dự Hội chợ FABTECH 2025 tại Chicago – sự kiện lớn về chế tạo kim loại, cơ khí và thiết bị công nghiệp – để quảng bá năng lực công nghiệp hỗ trợ Việt Nam.
Thứ tư, tiếp tục phát huy vai trò trong chương trình ITSI thuộc Đạo luật CHIPS của Mỹ, nơi Việt Nam là 1 trong 8 quốc gia được lựa chọn tham gia chuỗi cung ứng bán dẫn chiến lược.
Thứ năm, thúc đẩy phát triển sản xuất thông minh, tận dụng chính sách hỗ trợ công nghiệp số và thế mạnh nhân lực STEM. Việt Nam cần xây dựng hệ sinh thái, nâng cao chất lượng nhân lực và sớm ban hành tiêu chuẩn quốc gia cho sản xuất thông minh.
Ngoài ra, cần tập trung hỗ trợ tốt đoàn đàm phán Chính phủ trong nỗ lực sớm kết thúc đàm phán Hiệp định Thương mại Song phương Toàn diện với Mỹ trên cơ sở nguyên tắc “có qua có lại, cân bằng và công bằng”.
"Thỏa thuận này không chỉ tháo gỡ rào cản thuế quan đối với các sản phẩm công nghệ Việt Nam (vốn có nguy cơ bị áp thuế đối ứng), mà còn tạo khuôn khổ pháp lý ổn định cho hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ và tiếp cận chuỗi giá trị cao tại thị trường Mỹ", ông Hưng nêu rõ.
Ông Đỗ Ngọc Hưng, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Mỹ. (Ảnh: Chụp từ màn hình)
Trong khi đó, đại diện VINASA cũng nhấn mạnh rằng các doanh nghiệp công nghệ Việt vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức khi tiếp cận thị trường quốc tế.
Trước hết là việc thiếu sự hiện diện tại thị trường sở tại. Thứ hai là thiếu thông tin thị trường, bao gồm khách hàng mục tiêu, hành lang pháp lý, kênh tiếp cận hiệu quả.
Cuối cùng là hạn chế về kinh phí truyền thông và xúc tiến thương mại. Ngành CNTT Việt Nam hiện chưa có chiến dịch truyền thông quốc gia để quảng bá hình ảnh, năng lực và thương hiệu ra thế giới một cách đồng bộ.
Từ thực tiễn này, bà Nguyễn Thị Thu Giang đề xuất cần xây dựng một chiến lược xúc tiến thương mại riêng cho ngành công nghệ thông tin, phù hợp với bối cảnh phát triển mới và tốc độ chuyển đổi số toàn cầu ngày càng gia tăng.
Thứ hai, tăng ngân sách cho các hoạt động xúc tiến thương mại, với cơ chế phân bổ linh hoạt theo tỷ lệ phần trăm doanh thu xuất khẩu của ngành, nhằm bảo đảm nguồn lực đủ mạnh để hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường.
Thứ ba, cần nới lỏng cơ chế xét duyệt chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, cho phép doanh nghiệp đăng ký và nhận hỗ trợ nhiều lần trong năm, tương tự như mô hình đã triển khai hiệu quả tại Hàn Quốc.
Bên cạnh đó, các Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài cần chủ động cung cấp thông tin pháp lý, thị trường, đồng thời làm đầu mối kết nối doanh nghiệp Việt với các nhóm doanh nghiệp bản địa cùng ngành; cập nhật kịp thời các hội chợ, diễn đàn, sự kiện chuyên ngành phù hợp để giới thiệu, kết nối và mở rộng hợp tác.
Bà Giang cũng nhấn mạnh sự cần thiết của việc phát triển mô hình văn phòng dùng chung cho các doanh nghiệp công nghệ Việt Nam tại các trung tâm công nghệ lớn như Mỹ, Nhật Bản và Singapore.
"Những văn phòng này sẽ đóng vai trò là “căn cứ địa” pháp lý và thương mại, giúp doanh nghiệp có sự hiện diện chính thức, tăng độ tin cậy và mở rộng khả năng hợp tác lâu dài với đối tác quốc tế", bà Giang nêu rõ.
Chỉ 5 năm kể từ ngày chính thức có hiệu lực (1/8/2020), Hiệp định Thương mại Tự do giữa Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam (EVFTA) đã xúc tác cho kim ngạch thương mại song phương tăng trưởng mạnh mẽ, tích lũy gần 300 tỷ USD.
Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam (VPSA) vừa đề xuất một số giải pháp để hỗ trợ ngành hồ tiêu và gia vị phát triển bền vững. Trong đó, hiệp hội kiến nghị bỏ thuế giá trị gia tăng đối với hàng nguyên liệu đầu vào dùng để xuất khẩu, cân nhắc khả năng áp dụng thuế khoán xuất khẩu 0,5%...
PMI ngành sản xuất của Việt Nam đạt 52,4 điểm, tăng mạnh so với 48,9 điểm của tháng 6 và cũng là tháng đầu tiên trở lại trên ngưỡng 50 điểm sau ba tháng liên tiếp nằm dưới ngưỡng này. Sự cải thiện mạnh mẽ của điều kiện kinh doanh cũng mạnh nhất trong gần một năm trở lại đây.
Nhiều doanh nghiệp lên kế hoạch thích ứng trước thuế quan Mỹ, trong đó nhóm có hoạt động xuất khẩu ưu tiên tìm thị trường mới, theo Ban IV.