Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2005 tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho hay kinh tế Việt Nam năm 2025 dự kiến tăng trên 8%, quy mô nền kinh tế tăng từ 346 tỷ USD năm 2020 lên 510 tỷ USD năm 2025, tăng 5 bậc, lên vị trí 32 thế giới; GDP bình quân đầu người năm 2025 ước đạt khoảng 5.000 USD, gấp 1,4 lần năm 2020, vào nhóm thu nhập trung bình cao.
Cùng với đó, cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng trưởng chuyển biến tích cực, đủ sức chống chịu trước các cú sốc bên ngoài, duy trì tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao hàng đầu thế giới.
Báo cáo cũng chỉ ra nhiều hạn chế, khó khăn trong điều hành ổn định kinh tế vĩ mô như: Sản xuất kinh doanh trong một số lĩnh vực còn khó khăn; Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chưa thực sự trở thành động lực tăng trưởng chính; Nhân lực chất lượng cao còn thiếu, nhất là ngành mũi nhọn…
Để làm rõđâu là những cơ hội, thách thức và động lực của Việt Nam trong quý cuối năm 2025, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam.
Ông Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam. (Ảnh: NVCC).
- PV: Thưa ông, 9 tháng đầu năm 2025, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực mở ra kỳ vọng tăng trưởng cả năm 2025 trên 8%, vậy đâu là những động lực tăng trưởng chính cho năm nay?
Ông Nguyễn Bá Hùng: Kinh tế Việt Nam đang giữ được sự ổn định và đà tăng trưởng trong năm 2025. Điều này chứng tỏ chúng ta có thể kỳ vọng tăng trưởng 2026 ở mức cao hơn khi động lực tăng trưởng mới dần hình thành.
Theo ông, trong 9 tháng đầu năm 2025, kinh tế Việt Nam ghi nhận tốc độ tăng trưởng khá tích cực khi đạt mức 7,85%, cao hơn hẳn mức tăng 6,82% cùng kỳ năm ngoái.
Trong đó, hoạt động thương mại, xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh trong những tháng đầu năm 2025, khi doanh nghiệp đẩy nhanh giao hàng để tận dụng ưu đãi thuế hiện có trước khi mức thuế đối ứng mới của Mỹ có hiệu lực.
Tổng kim ngạch thương mại trong 9 tháng đầu năm ước đạt 680,66 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu đạt 348,74 tỷ USD, tăng 16%, còn nhập khẩu đạt 331,92 tỷ USD, tăng 18,8%, đưa cán cân thương mại thặng dư 16,82 tỷ USD.
Sự tăng trưởng mạnh của các ngành sản xuất hướng xuất khẩu đã kéo theo sự phát triển của các ngành liên quan, góp phần thúc đẩy xuất khẩu chung.
Ba là, đầu năm 2025 cũng chứng kiến xu hướng đầu tư tích cực, đặc biệt là đầu tư công. Chẳng hạn, vào đầu tháng 9 vừa qua, đã có 250 dự án được khởi công với tổng vốn đầu tư lên tới 51,2 tỷ USD, trong đó 37% đến từ vốn nhà nước và 63% từ các nguồn khác.
- PV: Kinh tế tăng trưởng cao cũng đồng nghĩa với nỗi lo về lạm phát tăng lên, tình hình kiểm soát lạm phát của Việt Nam từ đầu năm đến nay, thưa ông?
Ông Nguyễn Bá Hùng: Trong 9 tháng đầu năm, lạm phát của Việt Nam duy trì ở mức 3,27% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mục tiêu 4 - 4,5% mà Chính phủ đề ra. Đây là tín hiệu tích cực đối với nền kinh tế.
Như vậy, lạm phát năm 2025 được dự báo đạt 3,9% và có thể giảm nhẹ xuống 3,8% vào năm 2026. Việc giá năng lượng toàn cầu hạ nhiệt đã góp phần giảm chi phí vận chuyển - một yếu tố chiếm tỷ trọng đáng kể trong rổ hàng hóa và dịch vụ để tính giá tiêu dùng.
Đối với rủi ro lạm phát, luôn phải nhìn nhận ở cả hai góc độ, góc độ thứ nhất là cung tiền và thứ hai là sự cân bằng cung cầu của nền kinh tế.
Thời gian vừa qua, cân bằng cung cầu của nền kinh tế không có biến động đột biến, tương đối ổn định, thậm chí là nhu cầu hơi yếu chứ nguồn cung không hề thiếu. Vì vậy, áp lực lạm phát xuất phát từ nguyên nhân mất cân bằng cung cầu đang rất thấp.
Về cung tiền, mặc dù tăng trưởng tín dụng cao nhưng đặt trong bối cảnh lưu chuyển dòng tiền thấp thì tổng lượng thanh khoản không tăng quá nhiều để hình thành áp lực lạm phát từ thanh khoản.
Tuy nhiên, những đợt điều chỉnh tăng giá trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và điện lực do Nhà nước quản lý vẫn tiếp tục tạo áp lực lạm phát.
Ngoài ra, việc đẩy mạnh đầu tư công và tăng trưởng tín dụng có thể đẩy giá nguyên vật liệu, dịch vụ lên cao. Tình trạng mất giá của đồng tiền cũng có thể làm gia tăng chi phí nhập khẩu, từ đó ảnh hưởng đến lạm phát.
Bên cạnh đó, tài khoản vãng lai của Việt Nam ghi nhận mức thặng dư và cán cân thanh toán quốc tế gần như cân bằng - những tín hiệu tích cực cho sự ổn định kinh tế vĩ mô.
- PV : Với câu chuyện tăng trưởng tín dụng, nhiều ý kiến cho rằng tăng trưởng tín dụng ở mức quá cao sẽ gây nguy cơ bong bóng tài sản, áp lực lạm phát,...? Ông đánh giá như thế nào về quan điểm này?
Ông Nguyễn Bá Hùng: Tăng trưởng tín dụng là một trong những công cụ tiền tệ. Với những nền kinh tế như của Việt Nam thì cung tín dụng chỉ lành mạnh khi đi kèm với cầu tín dụng từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, tiêu dùng trong nước mặc dù mới tích cực trong một vài tháng trở lại đây những vẫn chưa quay lại như thời kỳ trước COVID - 19, đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân cũng đang khá "chập chờn", hiện mới chỉ có tín hiệu tương đối tích cực ở một số lĩnh vực liên quan đến đầu tư công và bất động sản.
Trong bối cảnh này, khi tín dụng tăng trưởng cao, có hiện tượng dòng tiền bắt đầu chảy vào các tài sản tài chính như: Thị trường chứng khoán, vàng hay USD và một phần vào bất động sản.
Vì vậy, tăng trưởng tín dụng nóng luôn có hai góc độ. Một là, đã giải quyết được nhu cầu vốn của nền kinh tế, tức là không bị nghẹt tín dụng.
Thế nhưng góc độ thứ hai là gây nguy cơ bong bóng tài sản. Bởi tự thân tín dụng thì không tạo ra tăng trưởng mà phải đi kèm với hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thực.
Mặc dù, cung tiền lớn nhưng vòng quay tiền không quá nhanh nên cũng chưa đáng ngại
Ông Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia Kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam
Với Việt Nam, hiện mặc dù cung tiền lớn nhưng vòng quay tiền không quá nhanh nên tổng thanh khoản không quá cao ra gây áp lực lạm phát.
Vòng quay tiền chậm cộng thêm năng lực sản xuất hàng hóa ngày càng tốt lên giúp lạm phát vẫn ở trong tầm kiểm soát. Nhưng điều này cũng đồng nghĩa với việc nền kinh tế thực vẫn chưa hết khó khăn.
Vì vậy, dù tổng lượng tín dụng tăng lên, nhưng nền kinh tế thực chưa hết khó khăn, vòng quay tiền chậm thanh khoản của tăng trưởng tín dụng với nền kinh tế là sẽ không cao như kỳ vọng.
Ngược lại, khi mà hoạt động sản xuất kinh doanh tốt lên, tốc độ lưu chuyển tiền tăng lên thì lại dẫn đến dư thừa thanh khoản và NHNN sẽ phải có biện pháp rút thanh khoản ra khỏi hệ thống.
- PV: Chính phủ đã nhiều lần nhắc đến việc bỏ room tín dụng, vậy phải bỏ như thế nào trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng ở mức cao như hiện nay?
Ông Nguyễn Bá Hùng: Khái niệm room tín dụng mà mọi người hay nói đến là một biện pháp hành chính để NHNN kiểm soát rủi ro vĩ mô ở góc độ vĩ mô khi các ngân hàng "vung tay quá trán" cho vay vượt năng lực tài chính gây nguy cơ đổ vỡ.
Hiện nay, NHNN đã có rất nhiều biện pháp quản lý khác để thay thế cho việc giới hạn về room tín dụng.
Thay vì sử dụng room tín dụng , NHNN có thể sử dụng Basel 2 và Basel 3 - tức là kiểm soát rủi ro của ngân hàng dựa trên các chỉ số về về độ đủ vốn, về độ thanh khoản, độ an toàn vốn.
Khi mà các ngân hàng mà đáp ứng được điều kiện về an toàn vốn thì lúc đấy sẽ tự sinh ra "room tín dụng tự nhiên" và muốn tăng room tín dụng thì chỉ cần tăng vốn chứ không nhất thiết phải chờ NHNN cấp cho.
Hiện nay NHNN vừa mới ban hành Thông tư 14 về quản lý rủi ro ngân hàng và dần dần đưa vào giai đoạn kiểm soát rủi ro của hệ thống ngân hàng thông qua an toàn vốn.
- PV: Các tháng vừa qua đã chứng kiến biến động rất mạnh về tỷ giá. Đâu là nguyên nhân dẫn đến biến động này và dự báo tỷ giá quý cuối năm, thưa ông?
Ông Nguyễn Bá Hùng: Thời gian vừa rồi mặc dù tỷ giá có áp lực những vẫn nằm trong ngưỡng 5% mà Việt Nam đặt mục tiêu.
Ở trong nước, biến động tỷ giá chủ yếu thể hiện cung cầu về USD. Trong giai đoạn vừa rồi, cung USD nhìn chung tương đối ổn định bởi xuất khẩu vẫn tăng trưởng cao, thặng dư thương mại trên 17 tỷ USD. Kể cả khi tính tới dòng vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp bị rút khỏi Việt Nam do áp lực về chênh lệch lãi suất với Mỹ thì cán cân ngoại hối về cơ bản vẫn cân bằng.
Tuy nhiên, về phía cầu, thời gian vừa rồi nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu vì vậy cầu ngoại tệ để thanh toán nhập khẩu có thể nhích lên đôi chút. Bên cạnh đó, người dân vẫn có tâm lý găm giữ USD.
Việt USD tăng giá so với VND là diễn biến cùng với việc giá vàng tăng trên thế giới. Tuy nhiên, bản chất không phải do VND yếu đi mà là do nhu cầu của người dân trong nước.
Trong quý IV/2025 khả năng cao sẽ không có biến động gì lớn về tỷ giá mà chỉ nhích nhẹ do nhu cầu nhập khẩu cuối năm cao, nhưng vẫn nằm trong ngưỡng 5%.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Theo đại biểu Quốc hội Tô Ái Vang (đoàn TP Cần Thơ), khoảng 97% doanh nghiệp nhỏ và vừa dự báo sẽ tiếp tục gặp khó khăn do chịu tác động của kinh tế thế giới. Vì vậy, Chính phủ cần cân đối tình hình thu NSNN và xem xét trình Quốc hội tiếp tục quyết định các chính sách miễn, giảm thuế phí trong năm 2026 và những năm tiếp theo.
Ông Nguyễn Cảnh Toàn, Phó Bí thư Tỉnh uỷ Lạng Sơn, vừa được bầu giữ chức vụ Chủ tịch UBND tỉnh nhiệm kỳ 2021 - 2026.
Hôm nay (21/10), Quốc hội sẽ thảo luận tại Tổ về nhiều nội dung quan trọng, liên quan đến tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025, giai đoạn 2021 - 2025 và dự kiến kế hoạch năm 2026.
Đến cuối năm 2025, 18 quỹ ngoài ngân sách do Trung ương quản lý dự kiến dư hơn 1,69 triệu tỷ đồng, tăng gần 15% so với cuối năm ngoái.