Ghi nhận tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, giá lúa gạo hôm nay chủ yếu đi ngang, chỉ có duy nhất cám tăng nhẹ so với ngày hôm qua.
Theo đó, giá gạo nguyên liệu IR 504 giữ nguyên ở mức 7.500 – 7.600 đồng/kg, trong khi gạo nguyên liệu CL 555 dao động trong khoảng 7.200 – 7.300 đồng/kg.
Ở nhóm phụ phẩm, tấm thơm vẫn được giao dịch ở mức 7.400 – 7.550 đồng/kg. Tuy nhiên, giá cám phục hồi và tăng 50 đồng/kg, đạt 6.700 – 6.900 đồng/kg.
| Giá gạo | ĐVT | Giá tại chợ (đồng) | Tăng (+), giảm (-) so với hôm trước |
| - Nguyên liệu IR 504 | kg | 7.500 – 7.600 | - |
| - Nguyên liệu CL 555 | kg | 7.200 – 7.300 | - |
| - Tấm thơm | kg | 7.400 – 7.550 | - |
| - Cám | kg | 6.700 – 6.900 | +50 |
Bảng giá gạo hôm nay 25/11 tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. (Nguồn: Luagaoviet.com)
Trên thị trường châu Á, giá gạo xuất khẩu của các quốc gia xuất khẩu hàng đầu cũng giữ ổn định trong phiên giao dịch gần nhất.
Theo dữ liệu từ Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), giá gạo trắng 5% tấm của Việt Nam hiện giao dịch ở mức 359 – 363 USD/tấn, gạo thơm 5% tấm trong khoảng 400 – 430 USD/tấn, còn gạo Jasmine 5% tấm đạt 448 – 452 USD/tấn.
Tại Ấn Độ, giá gạo trắng 5% tấm được báo giá ở mức 346 – 350 USD/tấn, trong khi gạo đồ 5% tấm cao hơn với 351 – 355 USD/tấn.
Trong khi đó, giá gạo 5% tấm của Pakistan đạt 337 – 341 USD/tấn. Sản phẩm cùng loại của Thái Lan đứng ở mức thấp nhất khu vực, dao động từ 336 – 340 USD/tấn.
Nguồn: Hoàng Hiệp tổng hợp từ Reuters và VFA
Ấn Độ, nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, đang trên đà phá vỡ kỷ lục xuất khẩu gạo của chính mình trong niên vụ 2025–2026, nhờ sản lượng trong nước tăng mạnh, xuất khẩu phục hồi mạnh mẽ và những nỗ lực mới nhằm khai thác các thị trường xuất khẩu còn bỏ ngỏ.
Theo Liên đoàn Các nhà Xuất khẩu Gạo Ấn Độ (IREF), xuất khẩu gạo của Ấn Độ dự kiến sẽ tăng 16% lên 23,5 triệu tấn trong niên vụ 2025-2026, từ mức 20,2 triệu tấn trong niên vụ 2024–2025.
Khối lượng xuất khẩu dự kiến sẽ vượt qua mức cao kỷ lục 22,35 triệu tấn của niên vụ 2022–2023, đánh dấu sự phục hồi sau đợt suy giảm trong năm 2023–2024, khi xuất khẩu gạo giảm xuống còn 16,35 triệu tấn do chính phủ áp đặt hạn chế thương mại đối với một số loại gạo không phải basmati nhằm bảo đảm nguồn cung trong nước trong bối cảnh giá thế giới tăng mạnh.
Tuy nhiên, sau khi các hạn chế được gỡ bỏ vào năm ngoái, xuất khẩu đã tăng trở lại, tăng 23,4% lên 20,2 triệu tấn trong niên vụ 2024–2025, theo dữ liệu từ Tổng cục Thông tin & Thống kê Thương mại (DGCIS) – thuộc Bộ Thương mại Ấn Độ.
Các nhà xuất khẩu tin rằng đà tăng trưởng này sẽ tiếp tục và có thể đẩy xuất khẩu lên 30 triệu tấn vào niên vụ 2026–2027, mức mà Ấn Độ chưa từng đạt được trước đây.
Chia sẻ với ThePrint, Phó Chủ tịch IREF, ông Dev Garg, cho biết: “Trong năm tài chính hiện tại, xuất khẩu gạo nhiều khả năng sẽ tăng 16% và chúng tôi đặt mục tiêu xuất khẩu 30 triệu tấn gạo vào niên vụ 2026–2027”.
IREF là tổ chức cấp quốc gia đại diện cho hơn 7.500 nhà xuất khẩu gạo trên khắp Ấn Độ.
Dự báo của ông Garg tương đồng với Báo cáo Ước tính Cung cầu Nông nghiệp Thế giới (WASDE) tháng 11/2025 của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), trong đó ước tính xuất khẩu gạo của Ấn Độ đạt khoảng 25 triệu tấn trong niên vụ 2025–2026.
USDA sử dụng niên vụ tiếp thị từ tháng 10 đến tháng 9, trong khi Ấn Độ sử dụng năm tài chính từ tháng 4 đến tháng 3.
Tính đến niên vụ 2024–2025, gạo không phải basmati chiếm 70% tổng sản lượng xuất khẩu và 48% giá trị. Gạo basmati là loại gạo hạt dài, thơm, cao cấp, trong khi gạo không phải basmati có hạt ngắn hơn và không thơm.
Dữ liệu cho thấy thị trường xuất khẩu gạo basmati và không phải basmati của Ấn Độ có sự khác biệt. Trong khi các nước châu Phi và châu Á là thị trường trọng điểm đối với gạo không phải basmati, thì xuất khẩu gạo basmati lại tập trung ở Trung Đông, châu Âu và Bắc Mỹ.
Trong niên vụ 2024–2025, năm thị trường xuất khẩu hàng đầu của gạo không phải basmati là Benin, Guinea, Bờ Biển Ngà, Togo và Bangladesh — chiếm 44% lượng xuất khẩu gạo không phải basmati và 43,8% giá trị.
Đối với gạo basmati, năm thị trường lớn nhất là Saudi Arabia, Iraq, Iran, Yemen và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, chiếm 61,2% lượng xuất khẩu và 59,3% giá trị.
Theo ước tính của USDA, trong niên vụ 2024–25, Ấn Độ đã vượt Trung Quốc để trở thành nước sản xuất gạo lớn nhất thế giới, với sản lượng đạt 150 triệu tấn, chiếm khoảng 28% sản lượng toàn cầu. Sự gia tăng này chủ yếu đến từ những ưu đãi của chính phủ và các phương pháp canh tác được cải thiện.
Mặc dù là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, giao hàng tới hơn 172 quốc gia và chiếm 38% thị phần xuất khẩu toàn cầu, Phó Chủ tịch IREF cho biết Ấn Độ vẫn còn dư địa để mở rộng.
Tại Hội nghị Gạo Quốc tế Bharat (BIRC) lần đầu tiên được tổ chức vào tháng trước, IREF đã xác định 26 quốc gia mà mức độ thâm nhập của Ấn Độ còn thấp nhưng tiềm năng rất lớn. Các quốc gia này bao gồm Indonesia, Philippines, Việt Nam, Iraq, Nhật Bản và Mexico…
Tổng cộng, 26 thị trường này nhập khẩu lượng gạo trị giá 20,1 tỷ USD (tương đương 1,8 nghìn tỷ Rupee). Nếu Ấn Độ có thể chiếm được một phần nhỏ trong thị phần này, điều đó sẽ giúp đạt mục tiêu xuất khẩu 30 triệu tấn vào năm 2027, ông Garg nói thêm.
Tỷ trọng gạo xuất khẩu của Ấn Độ sang Philippines chỉ chiếm 4%; phần còn lại thuộc về các nhà cung cấp khác. “Mục tiêu là nâng thị phần này lên 30% trong năm tài khóa tới,” ông Garg cho biết.
Để chinh phục các thị trường này, IREF đang nghiên cứu sở thích ẩm thực đặc trưng của từng quốc gia và xác định các giống gạo Ấn Độ có thể thay thế tương đương sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
“Chúng tôi đã xác định những giống gạo Ấn Độ phù hợp nhất với khẩu vị ẩm thực của từng nước, để có thể cung cấp một lựa chọn thay thế tương đương,” Garg cho biết thêm.
Đầu giờ chiều 26/11, thị trường vàng trong nước tiếp tục diễn biến sôi động khi các thương hiệu lớn đồng loạt điều chỉnh tăng mạnh. Vàng miếng SJC bứt phá vượt ngưỡng 153 triệu đồng/lượng, trong khi vàng nhẫn trơn và vàng nữ trang 24K ghi nhận mức tăng thêm từ 500.000 đến 1,5 triệu đồng/lượng.
Giá sầu riêng hôm nay ghi nhận biến động mạnh đối loại sầu Thái loại đẹp, trong khi các loại khác không có nhiều biến động.
Chủ tịch HMC cho rằng ngành thép sẽ tăng trưởng ở mức hai con số, thậm chí cao hơn tốc độ tăng GDP dù vẫn còn gặp nhiều cạnh tranh và thách thức.
VASEP cho biết trong trung hạn, thiệt hại đối với tôm hùm sắp thu hoạch có thể khiến nguồn cung đầu năm 2026 suy giảm đáng kể, tạo biến động giá và ảnh hưởng tới khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hiện tại.