Ghi nhận trong sáng nay, giá tiêu tại các địa phương sản xuất trọng điểm dao động trong khoảng 144.000 – 146.000 đồng/kg, giảm 1.000 đồng/kg tại Đắk Lắk và Đắk Nông, trong khi giữ ổn định ở các địa phương khác.
Tính chung cả tuần, giá tiêu trên thị trường nội địa giảm 2.000 – 4.000 đồng/kg so với tuần trước.
Trong đó, Bà Rịa – Vũng Tàu và Đồng Nai ghi nhận mức giảm mạnh nhất, mất 4.000 đồng/kg, còn 145.000 đồng/kg.
Tại Bình Phước, giá tiêu được thu mua ở mức tương tự là 145.000 đồng/kg, giảm 2.000 đồng/kg.
Trong khi đó, giá tiêu tại Đắk Lắk và Đắk Nông phổ biến ở mức 146.000 đồng/kg, giảm 2.000 đồng/kg.
Còn tại Gia Lai, các đại lý đang mua vào ở mức thấp nhất là 144.000 đồng/kg, giảm 2.000 đồng/kg.
Thị trường (khu vực khảo sát) |
Giá thu mua ngày 19/10 (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Thay đổi so với ngày hôm trước (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Thay đổi so với tuần trước (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Đắk Lắk |
146.000 |
-1.000 |
-2.000 |
Gia Lai |
144.000 |
- |
-2.000 |
Đắk Nông |
146.000 |
-1.000 |
-2.000 |
Bà Rịa – Vũng Tàu |
145.000 |
- |
-4.000 |
Bình Phước |
145.000 |
- |
-2.000 |
Đồng Nai |
145.000 |
- |
-4.000 |
Nguồn: Hoàng Hiệp tổng hợp
Theo Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC), giá hồ tiêu trong tuần qua ghi nhận sự sụt giảm tại hầu hết các quốc gia sản xuất lớn.
Cụ thể, giá tiêu đen Lampung Indonesia giảm nhẹ 2 USD/tấn, xuống còn 7.228 USD/tấn.
Tại Brazil, tiêu đen Brazil ASTA 570 được giao dịch ở mức 6.100 USD/tấn, giảm 100 USD/tấn so với tuần trước.
Đáng chú ý, giá tiêu đen xuất khẩu của Việt Nam giảm mạnh nhất, mất 200 USD/tấn, hiện dao động trong khoảng 6.400 – 6.600 USD/tấn đối với loại 500 g/l và 550 g/l.
Trong khi đó, giá tiêu đen Kuching Malaysia vẫn giữ ổn định ở mức 9.500 USD/tấn, không có biến động so với tuần trước.
Tên loại |
Bảng giá tiêu đen thế giới |
|
Ngày 19/10 (ĐVT: USD/tấn) |
% thay đổi so với tuần trước |
|
Tiêu đen Lampung (Indonesia) |
7.228 |
-0,03 |
Tiêu đen Brazil ASTA 570 |
6.100 |
-1,61 |
Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA |
9.500 |
0,00 |
Tiêu đen Việt Nam (500 g/l) |
6.400 |
-3,03 |
Tiêu đen Việt Nam (500 g/l) |
6.600 |
-2,94 |
Cùng thời điểm khảo sát, giá tiêu trắng Muntok Indonesia giảm 3 USD/tấn so với ngày tuần trước, xuống còn 10.085 USD/tấn. Tương tự, giá tiêu trắng Việt Nam giảm 200 USD/tấn, đạt 9.050 USD/tấn.
Riêng giá tiêu trắng Malaysia ASTA đi ngang trong cả tuần qua ở mức 12.500 USD/tấn.
Tên loại |
Bảng giá tiêu trắng thế giới |
|
Ngày 19/10 (ĐVT: USD/tấn) |
% thay đổi so với tuần trước |
|
Tiêu trắng Muntok Indonesia |
10.085 |
-0,03 |
Tiêu trắng Malaysia ASTA |
12.500 |
- |
Tiêu trắng Việt Nam |
9.050 |
-2,16 |
Báo cáo của Bộ Nông nghiệp Indonesia cho biết, sản lượng hồ tiêu của Indonesia năm 2024 theo ước tính sơ bộ đạt 62,63 nghìn tấn, được sản xuất bởi các nông hộ và các đồn điền tư nhân lớn.
Sản lượng hồ tiêu của Indonesia chủ yếu đến từ quần đảo Bangka Belitung và tỉnh Lampung, với tỷ lệ đóng góp trung bình trong 5 năm gần nhất lần lượt là 31,29% và 20,71%, trong khi các tỉnh khác chỉ chiếm dưới 10%.
Năm 2025, sản lượng được dự báo đạt 63,46 nghìn tấn. Tuy nhiên, sản lượng này được ước tính sẽ tiếp tục giảm dần, còn khoảng 60,43 nghìn tấn vào năm 2028. Tốc độ giảm trung bình của sản lượng hồ tiêu trong 5 năm tới (2024–2028) được dự báo là 0,88% mỗi năm.
Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ hồ tiêu nội địa Indonesia năm 2024 ước tính khoảng 8,25 nghìn tấn và sẽ tăng bình quân 26,09% mỗi năm trong 5 năm tới. Năm 2025, nhu cầu hồ tiêu trong nước được dự báo đạt 14,24 nghìn tấn.
Mặc dù tốc độ tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ hồ tiêu trong nước cao hơn so với sản lượng, nhưng trong 5 năm tới, Indonesia vẫn được dự báo duy trì thặng dư hồ tiêu, thể hiện qua việc xuất khẩu ròng vẫn duy trì ở mức cao.
Năm 2024, xuất khẩu ròng hồ tiêu của Indonesia đạt 54,38 nghìn tấn. Dự kiến, con số này sẽ giảm trung bình 5,74% mỗi năm trong 5 năm tới. Năm 2025, xuất khẩu ròng dự báo giảm xuống còn 49,22 nghìn tấn; năm 2026 tiếp tục giảm còn 41,89 nghìn tấn; năm 2027 tăng trở lại lên 44,48 nghìn tấn; và đến năm 2028 giảm nhẹ còn 42,35 nghìn tấn.
Sản lượng hồ tiêu cao giúp Indonesia giữ vị trí thứ ba thế giới về sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu. Đặc biệt, hồ tiêu trắng Muntok của Indonesia đã nổi tiếng toàn cầu nhờ chất lượng và hương vị đặc trưng. Trên thị trường quốc tế, các thị trường xuất khẩu chính của hồ tiêu Indonesia bao gồm Việt Nam, Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Đức, Nhật Bản và Hà Lan.
Thị trường vàng trong nước tuần qua (13–19/10) ghi nhận đợt tăng giá mạnh nhất từ đầu năm, khi nhiều thương hiệu lớn đồng loạt lập đỉnh mới. Đáng chú ý, vàng nhẫn tròn trơn và nữ trang 24K tại Bảo Tín Minh Châu đều vượt ngưỡng 159 triệu đồng/lượng, tăng 16,4 – 17,2 triệu đồng chỉ trong một tuần, cao hơn vàng miếng SJC tới 8,3 – 8,5 triệu đồng/lượng.
Nhiều doanh nghiệp thủy sản gặp không ít khó khăn khi quay trở lại thị trường nội địa – nơi được đánh giá là giàu tiềm năng với hơn 100 triệu dân và nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng cao.
Với mức niêm yết 71.429 đồng/kg, mỡ heo hiện có giá bán thấp nhất trong các sản phẩm thịt heo được khảo sát tại Công ty Thực phẩm tươi sống Hà Hiền.
Giá cà phê tuần qua tại thị trường trong nước tăng 500 – 700 đồng/kg so với tuần trước. Các thương nhân cho biết, hoạt động giao dịch tại Việt Nam vẫn khá trầm lắng do nguồn cung hạn chế, lượng cà phê tươi từ vụ thu hoạch hiện tại vẫn chưa tăng lên.