Với mục tiêu đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 57 ngày 22/12/2024. Trong đó xác định phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội.
Đánh giá về Nghị quyết 57, TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho rằng, Nghị quyết này được ví như "Khoán 10" của thế kỷ 21, khi nó đặt nền móng cho một kỷ nguyên phát triển mới.
Theo ông, cả "Khoán 10" và Nghị quyết 57 đều mang tính chất đột phá. Nếu 'Khoán 10' mở đường cho nền kinh tế thị trường trong lĩnh vực nông nghiệp, phá bỏ cơ chế tập trung quan liêu và trao quyền tự chủ sản xuất cho nông dân, thì Nghị quyết 57 nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo như động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
"Đây là sự thay đổi căn bản, chuyển từ mô hình dựa vào lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên thiên nhiên sang mô hình phát triển dựa trên tri thức, công nghệ và kỹ năng", ông nói.
Trên thực tế, mô hình tăng trưởng truyền thống của Việt Nam vẫn dựa nhiều vào động lực từ bên ngoài bằng việc thu hút vốn đầu tư FDI nhờ lao động giá rẻ và tài nguyên thiên nhiên. Thành quả của mô hình tăng trưởng này đã kéo Việt Nam từ một nước nghèo thành một nền kinh tế xếp trong top 15 của Châu Á.
Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng này tạo ra một điểm nghẽn: Giá trị gia tăng chủ yếu bị doanh nghiệp nước ngoài thâu tóm với nhóm doanh nghiệp FDI chiếm hơn 70% giá trị xuất khẩu.
Kết quả là trong một chiếc áo có giá hàng nghìn USD, Việt Nam chỉ chiếm một phần rất nhỏ, bởi "một cái áo bán ra mà thiết kế, vải, nhuộm, chỉ, cúc đều của người khác thì mình được bao nhiêu? Có chăng chỉ là công lao động và sự ô nhiễm môi trường?", Tổng Bí thư Tô Lâm nói tại Diễn đàn quốc gia về phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lần thứ VI với chủ đề "Làm chủ công nghệ số, làm chủ quá trình chuyển đổi số Việt Nam bằng doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam ngày 15/1.
Sự đóng góp của khu vực FDI đối với việc nâng cao tiến bộ khoa học nội địa còn thấp; trên 80% doanh nghiệp FDI sử dụng công nghệ trung bình; 14% sử dụng công nghệ lạc hậu, khoảng 5% sử dụng công nghệ cao. "Sắp tới đây chúng ta phải thu hút FDI có chọn lọc tốt hơn. Đừng để Việt Nam trở thành cứ điểm “lắp ráp - gia công”, là bãi rác về công nghệ của thế giới, trong khi doanh nghiệp trong nước không học hỏi được gì", Tổng Bí thư nhấn mạnh.
Câu chuyện phát triển công nghệ để vươn lên cũng từng diễn ra tại Hàn Quốc và Nhật Bản, những "con rồng châu Á" thời thập niên 90 của thế kỷ trước.
Năm 1962, thu nhập bình quân đầu người theo giá hiện hành của Hàn Quốc là 110 USD, còn của Ấn Độ là 90 USD và Thái Lan là 110 USD; trong khi đó Mexico, Brazil và Philippines có mức thu nhập cao hơn hẳn (lần lượt là 360 USD, 230 USD, và 220 USD).
Tuy nhiên, chỉ đến năm 1970, Hàn Quốc đã vượt qua Philippines, 1980 vượt qua Thổ Nhĩ Kỳ và đến năm 1984 thì vượt qua tất cả các nước nói trên. Kể từ đó, khoảng cách thu nhập giữa Hàn Quốc và các nước ngày càng mở rộng. Năm 1996, thu nhập bình quân đầu người của Hàn Quốc cán mốc 13.080 USD, Hàn Quốc chính thức gia nhập hàng ngũ các nước có thu nhập cao và trở thành thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD).
Theo phân tích của Cơ quan nghiên cứu Mc Kinsey, Hàn Quốc chỉ cần 25 năm (1970 - 1995) để nâng mức thu nhập bình quân đầu người từ 2.500 USD lên 12.600 USD; trong khi đó, Đức cần tới 80 năm, Pháp là 89 năm và Mỹ là 97 năm.
Trong đó, sự phát triển kinh tế thần kỳ giúp Hàn Quốc thoát bẫy thu nhập trung bình thành công là kết quả không chỉ từ sự can thiệp linh hoạt và hiệu quả của Chính phủ với việc lựa chọn mô hình tăng trưởng phù hợp mà còn là kết quả của một đội ngũ nhân lực chất lượng cao cùng sự đầu tư thích đáng cho khoa học và công nghệ cũng như là khả năng huy động và sử dụng vốn đầu tư một cách hiệu quả.
Tương tự, Nhật Bản cũng trở thành quốc gia phát triển nhờ tốc độ phát triển GDP bình quân hàng năm khoảng 10% trong giai đoạn 1955-1973. Là một nước đi sau phương Tây nhưng Nhật Bản đã tăng cường nhập khẩu công nghệ cao, rút ngắn khoảng cách, từng bước công nghiệp hóa, nâng cao năng suất, rồi sau đó xuất khẩu lại công nghệ ra thế giới.
Nhật Bản cũng tái cơ cấu nguồn lực bằng việc tập trung nguồn lực với những ngành nghề tạo ra năng suất cao, giá trị cao thay vì những ngành có giá trị thấp như nông nghiệp đồng thời tăng quy mô sản xuất của nhiều ngành nghề, tạo ra giá trị cao, năng suất cao cho hàng hóa.
Có thể thấy, muốn trở thành quốc gia phát triển, điều kiện kiên quyết là phải có một nền công nghiệp phát triển. Trong đó, "Made in Vietnam" chỉ có thể đưa chúng ta thoát nghèo, giống như chúng ta chỉ có thể đóng góp một phần nhỏ vào trong tổng giá bán nghìn USD.
"Giờ ta muốn thoát nghèo, lên thành thu nhập cao, thì ta không chỉ 'made in Vietnam' mà phải 'designed, created in Vietnam. Làm được như thế tự khắc có tăng trưởng hai con số, và duy trì nó được lâu thì tự nhiên chúng ta thoát được bẫy thu nhập trung bình", chuyên gia Hồ Quốc Tuấn, Giảng viên cao cấp Đại học Bristol, Anh phân tích.
Theo ông, muốn tăng trưởng cao phải dựa vào động lực chính từ doanh nghiệp trong nước trong khi khối doanh nghiệp này lại đang bị một căn bệnh gọi là “không chịu lớn”, mà sự cản trở đến từ nhiều nơi, trong đó có môi trường kinh doanh và luật lệ.
Cởi trói được những rào cản để doanh nghiệp Việt Nam có thể vươn lên, bắt tay với doanh nghiệp ngoại thì Việt Nam mới không cần dọn tổ đón đại bàng nữa mà mạnh dạn vươn mình bay chung với đại bàng.
"Có được làm chung với các tập đoàn hàng đầu ở các khâu giá trị nhất, thì chúng ta mới 'học nghề' được. Khi quyền tự chủ trong làm ăn được nâng lên thì người ta mới mạnh dạn làm, đột phá, xâm nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng, mạnh dạn đi bắt tay với những tay chơi hàng đầu thế giới để mà hợp tác", ông Tuấn nói.
Tuy nhiên, muốn doanh nghiệp Việt Nam đủ lớn thì môi trường kinh doanh phải được cải thiện, thủ tục phải đơn giản.
Để doanh nghiệp Việt tự tin làm chung với những tay chơi hàng đầu thế giới mà không bị vướng mắc thủ tục thì chúng ta mới có cơ hội chia sẻ miếng bánh to hơn, lớn hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu, chuyên gia Hồ Quốc Tuấn nhìn nhận.
Theo ông Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia Kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, giải ngân vốn đầu tư công mỗi năm chỉ đạt khoảng 80 - 85% gây ra sự thiếu hụt trong đầu tư cần thiết. Và sau nhiều năm tiếp diễn như vậy, ngày càng có nhiều điểm nghẽn về hạ tầng có thể nhìn thấy rõ như: Tình trạng kẹt xe, quá tải trường học, bệnh viện,...
Yếu tố Hỏa - tượng trưng cho hạnh phúc và lạc quan - quay lại sau nhiều năm biến mất, đem lại sự tự tin và thúc đẩy kinh tế toàn cầu.
Tăng trưởng kinh tế vượt bậc; sự kiên cường, khả năng ứng biến, luôn nhìn về phía trước với sự lạc quan và dũng cảm của người Việt Nam; cùng sự chuẩn bị của để bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc… đã gây ấn tượng mạnh đối với các nhà ngoại giao nước ngoài.
Ngày mùng 1 Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025, cả nước đã kiểm tra, phát hiện và xử lý 3.980 trường hợp vi phạm giao thông, trong đó có 967 trường hợp vi phạm nồng độ cồn.