03/06/2025 19:15

[Tổng thuật] Phiên 3 VIF 2025 Mid-Year Update: Tài sản mã hóa & Blockchain - Cửa ngõ mới cho nhà đầu tư

Với sự tham gia của các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực kinh tế, tài chính và công nghệ, VIF 2025 Mid-Year Update không chỉ đưa ra những phân tích sát thực về biến động thị trường truyền thống, mà còn mở rộng góc nhìn về tài sản mã hóa – một chủ đề đang thu hút nhiều sự quan tâm từ cộng đồng đầu tư và giới quản lý.

Phiên thảo luận chuyên sâu cuối cùng tại Vietnam Investment Forum 2025: Mid-Year Update với chủ đề "Tài sản mã hóa & Blockchain: Cửa ngỏ mới cho nhà đầu tư - Hướng tới thị trường chuyên nghiệp và minh bạch" có sự tham gia của các diễn giả:

  • Ông Tô Trần Hòa, Phó Trưởng ban Phát triển thị trường Chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
  • Ông Phan Đức Trung, Chủ tịch Hiệp hội Blockchain Việt Nam (VBA)
  • Ông Phan Vũ Tuấn, Trưởng văn phòng Luật sư Phan Law Vietnam
  • Ông Mai Huy Tuần, Tổng Giám đốc CTCP Công nghệ số SSI (SSI Digital - SSID).
  • Bà Đoàn Mai Hạnh, Giám đốc cao cấp Kinh doanh và Tự doanh Thị trường Tài chính - CTCP Chứng khoán Kỹ thương (TCBS)
  • Host: Bà Nguyễn Thị Triều, Phó Tổng Giám đốc, phụ trách Khối Ngân hàng Đầu tư và Quản trị Nguồn vốn của CTCP Chứng khoán OCBS

Các diễn giả tham gia thảo luận tại Phiên 3với chủ đề "Tài sản mã hóa & Blockchain: Cửa ngỏ mới cho nhà đầu tư - Hướng tới thị trường chuyên nghiệp và minh bạch". (Ảnh: BTC).

Host Nguyễn Thị Triều,Phó Tổng Giám đốc, phụ trách Khối Ngân hàng Đầu tư và Quản trị Nguồn vốn của CTCP Chứng khoán OCBS: Chúng ta sẽ cùng mở đầu phần thảo luận phiên 3 bằng một kết quả khảo sát. Bên cạnh 18,4% nhà đầu tư đang đầu tư vào tài sản mã hoá, còn có hơn 63% nhà đầu tư cho biết họ đang quan tâm đến chủ đề tài sản số.

Kết quả này cho thấy nhu cầu sở hữu tài sản số tại Việt Nam hiện nay là rất lớn, trong đó thực tế hoạt động đầu tư và mối quan tâm đều tập trung vào tài sản mã hóa, đặc biệt là các đồng coin.

Yêu cầu về hoàn thiện khung pháp lý cho các loại tài sản mã hoá (TSMH), tiền mã hoá trong Nghị quyết 68 hay Bộ Tài chính đang triển khai các bước để trình Chính phủ ban hành nghị quyết thí điểm xây dựng sàn giao dịch TSMH là những bước đi thực tế cho thấy Việt Nam đang chuẩn bị thử nghiệm, hướng tới xu hướng công nhận và mở cửa cho thị trường tài sản mã hoá.

 Kết quả khảo sát mức độ quan tâm của nhà đầu tư đối với tài sản số do Ban tổ chức thực hiện. (Ảnh: BTC).

Dưới góc độ nhà quản lý, theo ông thì đâu sẽ là những điểm mới đột phá hứa hẹn tạo ra một mảng thị trường tài chính số mới tại Việt Nam? Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn về phạm vi của sandbox về sàn giao dịch TSMH và theo ông đâu là mục tiêu mà việc thí điểm này mang lại?

Ông Tô Trần Hòa, Phó Trưởng ban Phát triển thị trường Chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước: Đối với Việt Nam, tính đến thời điểm hiện tại chưa có quy định về thị trường tài sản số, tài sản mã hoá. Báo chí đã có rất nhiều bài viết đã về thị trường này, đưa ra rất nhiều khái niệm về thị trường tài sản số, tài sản mã hoá... Chúng ta phải đối mặt với lượng thông tin rất lớn và chưa thể hình dung được về thị trường này như thế nào?

Nếu nói về con số chính thức về thị trường Việt Nam thì chưa có, phương pháp thống kê từ các tổ chức rất khác nhau. Nhiều tổ chức đánh giá Việt Nam rất phát triển, có rất nhiều nhà đầu tư tham gia, đặc biệt là giới trẻ, đâu đó khoảng 9 triệu - 21 triệu tài khoản.

Nếu nói về con số đó thì có thể nói thị trường Việt Nam có quá nhiều kỳ vọng đối với thị trường này nhưng các con số đưa ra chưa phải con số chính xác để có thể nhìn vào.

Chúng tôi – hiện nay là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Bộ Tài chính – được giao nhiệm vụ xây dựng khung dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về thị trường tài sản mã hóa. Khi có cơ sở pháp lý về dự thảo nghị quyết chính phủ thị trường mã hoá, đồng thời ban hành khung pháp lý, chúng ta kỳ vọng có bức tranh tổng thể chính xác hơn về thị trường, số liệu sẽ chính xác hơn.

Đây sẽ là bước khởi đầu đối với thị trường Việt nam, một thị trường tài chính mới hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Tại việt nam đa phần dâ số trẻ và rất quan tâm đến thị trường này, kỳ vọng đây sẽ là thị trường dẫn dắt thị trường tài chính trong tương lai.

 Ông Tô Trần Hòa, Phó Trưởng ban Phát triển thị trường Chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. (Ảnh: BTC).

Rủi ro pháp lý lớn nhất để mở rộng thị trường tài sản mã hóa và quản lý rủi ro ra sao?

Ông Tô Trần Hòa, Phó Trưởng ban Phát triển thị trường Chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước: Hiện nay, Chính phủ đang trình Quốc hội về Luật Công nghiệp công nghệ số, từ đó sẽ có khái niệm về tài sản số và tài sản mã hóa, đây là cơ sở để xây dựng các chính sách.

Tài sản mã hóa là một phần của thị trường tài sản số, chúng tôi đang coi đây là một loại tài sản. Khi chưa có luật hóa thì tất cả hoạt động nằm trên vùng xám và có rủi ro. Chúng tôi đã nhận nhiều văn bản yêu cầu xác minh các giao dịch tài sản số, tiền số và gần như 90% các vụ việc mang tính chất vi phạm, lừa đảo.

Việc có thể luật hóa thị trường tài sản mã hóa là bước đi của Chính Phủ để bảo vệ người dân khỏi lừa đảo, đồng thời tạo ra kênh đầu tư mới, kênh huy động mới cho doanh nghiệp và kênh thu thuế cho Chính phủ.

Hiện Chính phủ đang co lại và chỉ quản lý giao dịch tài sản mã hóa. Việc thị trường tài sản mã được thừa nhận thì sẽ là cơ hội để đổi mới sáng tạo và tăng cường nền kinh tế số.

 Ông Phan Vũ Tuấn, Trưởng văn phòng Luật sư Phan Law Vietnam. (Ảnh: BTC).

Theo dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số, tài sản số hợp pháp được định nghĩa và quản lý như thế nào?

Ông Phan Vũ Tuấn, Trưởng văn phòng Luật sư Phan Law Vietnam: Điều đầu tiên là phải liệt kê tài sản mã hóa, tài sản số vào luật và được công nhận tài sản đã. Trước đây, chúng ta vẫn chưa tách bạch các tài sản số, thì hiện nay đã tách ra được tài sản mã hóa, ko bao gồm NFT và đổi mới sáng tạo. Việc tách bạch được các không gian chuyên sâu là điều rất tốt.

Chúng tôi mong muốn nhất tài sản mã hóa là loại hình quyền tài sản. Cần được coi là tài sản vì trước đây chủ sở hữu các tài sản này chưa được pháp luật bảo hộ. Nếu như mất đi thì có được thừa kế hay không, hay các vấn cướp bitcoin có được coi là cướp tài sản không... Chúng tôi mong muốn thông tin về Luật Công nghiệp công nghệ số và nghị quyết về tài sản mã hóa sẽ ra đời.

 Ông Phan Đức Trung, Chủ tịch Hiệp hội Blockchain Việt Nam (VBA). (Ảnh: BTC).

Ông Phan Đức Trung, Chủ tịch Hiệp hội Blockchain Việt Nam (VBA): Ở lĩnh vực tài sản số chúng tôi cũng tham gia rất tích cực. Chúng tôi từng tranh luận đến mức tài sản ảo có là tài sản không, viện dẫn tài sản ở các nước là các tài sản hữu hình và vô hình.

Luật Công nghiệp công nghệ số thì có thể phân loại rất nhiều tài sản và có tình bao trùm. Chúng ta vui vì may mà có luật ra đời để có khung pháp lý hành động. Cơ quan thuế thấy có ông bitcoin giàu lên mà không thu được cũng tiếc. Người Việt đang có nhu cầu và FOMO nên cần ban hành sớm, để đảm bảo đó là tài sản thực và đi theo xu thế thế giới, tạo nguồn vốn lưu động đưa vào chứng khoán và định hướng tài sản.

Công nghệ Blockchain đang đi theo hai xu hướng: (1) xu hướng đầu tiên giúp đổi mới công nghệ và được tất cả các nước ủng hộ, ở Mỹ đang được chính quyền Tổng thống Donald Trump ủng hộ mạnh mẽ; (2) xu hướng thứ hai là ứng dụng vào tài sản mã hóa. Đây là hai lĩnh vực khá khác biệt và ứng dụng vào thực tế cũng rất khác biệt. Vậy nên, chúng ta đừng nhầm lẫn chúng với nhau. 

Hay nói cách khác, công nghệ blockchain đi theo nhánh đầu tiên sẽ tác động vào tất cả ngành nghề, bắt đầu từ ngành tài chính. Công nghệ blockchain đi theo nhánh thứ hai sẽ áp vào tài sản mã hóa, ứng dụng vào ngành tài chính. Hiện nay, nhà nước đang ra các dự thảo để thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào lĩnh vực này. 

Hiện trên thế giới, nhiều nước tiên tiến đã ra các đạo luật khác nhau về ứng dụng Blockchain vào kinh doanh và cuộc sống. Tất cả các điều luật đều đều dựa trên 4 khía cạnh: chính sách thuế, chống rửa tiền - khủng bố, bảo vệ nhà đầu tư, cấp phép. 

Chính phủ Mỹ làm rất chặt chẽ ở khía cạnh ‘chống rửa tiền – tài trợ khủng bố’, Nhà sáng lập Binance đã đi tù với tội danh "không tuân thủ quy định chống rửa tiền" và vi phạm lệnh trừng phạt do Bộ Tư pháp Mỹ (DOJ) đưa ra, chứ không gặp vấn đề gì về công nghệ. Sau khi ông Trump quay lại cũng đã bác bỏ hàng loạt vụ kiện của người tiêu dùng Mỹ mà ông cho rằng, các cơ quan công quyền ở Mỹ đã ‘bảo vệ nhầm và gây cản trở thị trường’.

Theo tôi, tác động của công nghệ blockchain lên nền kinh tế là không thể chối cãi, còn tác động như thế nào thì tùy cách chúng ta ứng dụng. Tại Việt Nam, dù thị trường blockchain đang phát triển nhưng chưa có luật, song Chính phủ đang điều chỉnh với những bước đi mạnh mẽ, ví dụ như thông qua Nghị quyết 57. Tôi mong đợi, luật Công nghiệp Công nghệ số sẽ được thông quan trong tương lai gần.

 Ông Mai Huy Tuần, Tổng Giám đốc CTCP Công nghệ số SSI (SSI Digital - SSID). (Ảnh: BTC).

Khi việc thí điểm xây dựng sàn giao dịch TSMH đang được tính đến, theo ông, bà thì làm thế nào để có cơ chế khuyến khích nhà đầu tư trong nước chuyển tài sản mã hóa của họ về và giao dịch trên các sàn trong nước? Doanh nghiệp kỳ vọng gì khi cơ chế thí điểm được ban hành? Có lo ngại về rủi ro pháp lý hoặc thiếu hành lang bảo vệ hay không?

Ông Mai Huy Tuần, Tổng Giám đốc CTCP Công nghệ số SSI (SSI Digital - SSID): Với vai trò là doanh nghiệp, điều mà chúng tôi luôn kỳ vọng là một cơ chế vận hành thông suốt và minh bạch, để doanh nghiệp có thể biết được đâu là đúng, đâu là chuẩn, từ đó có thể dựa vào các khung rõ ràng để triển khai hoạt động một cách đúng đắn.Tất nhiên ở góc độ doanh nghiệp, với những gì được phép làm, nếu có thể mở rộng và tạo điều kiện hơn nữa thì chúng tôi sẽ càng cảm thấy hài lòng hơn. 

Riêng với SSI, trong những năm vừa qua, chúng tôi đã tập trung đầu tư rất nhiều, trong đó có cả việc xây dựng một “vườn ươm” nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp start-up tại Việt Nam.

Bởi thực tế như mọi người đều biết, đất nước chúng ta đã là nền kinh tế nông nghiệp quá lâu rồi. Tôi tin rằng trong thời đại số, những tài sản mã hóa cũng có thể xuất khẩu ra thế giới, có thể mang được USD về cho người Việt Nam. 

Đã có rất nhiều kỳ lân tại Việt Nam thành công trong lĩnh vực này và chỉ đến khi các dự án của họ bùng nổ, được định giá một vài trăm triệu USD thì chúng ta mới phát hiện ra họ là người Việt.

Khi chúng tôi tìm lại các câu chuyện, các bài blog hay thông tin dự án thì mới thấy rằng họ đến từ Việt Nam nhưng không ai biết điều đó trước đây. 

Với SSI, chúng tôi kỳ vọng khi có khung pháp lý cho việc thành lập sàn về tài sản mã hóa, chúng tôi có thể đồng hành, hỗ trợ để các dự án của người Việt có thể bước ra quốc tế một cách đường đường chính chính, qua đó mang nguồn ngoại tệ lớn về cho đất nước. Đó là mục tiêu lớn nhất mà chúng tôi hướng đến.

Bên cạnh đó, SSI cũng đã thành lập quỹ đầu tư SSI Digital Ventures và cam kết đầu tư 200 triệu USD cho các dự án trong lĩnh vực blockchain và AI, đặc biệt ưu tiên các dự án đến từ Việt Nam.

Về rủi ro pháp lý, đây là điều doanh nghiệp nào trong ngành cũng rất quan tâm. Chúng tôi đã tham gia vào thị trường tài sản mã hóa từ khoảng năm 2017 – thời điểm mà giá bitcoin chỉ khoảng 1.800 đến 2.000 USD. Từ thời điểm đó đến nay, những rủi ro pháp lý đã luôn hiện hữu.

Chúng tôi thuộc thế hệ đầu tiên đào coin ở Việt Nam và thực tế là thời đó, rất nhiều người Việt đào được lượng bitcoin cực lớn.

Tôi có những người bạn sở hữu tới 2.000 bitcoin. Nếu quy ra giá hiện tại, mỗi bitcoin khoảng 3 tỷ đồng thì giá trị tài sản là con số rất lớn.

Tôi cũng từng tận mắt xem ví điện tử của một người bạn và thấy họ sở hữu hơn 1.000 bitcoin. Tuy nhiên hiện nay, nhiều người không dám công khai tài sản này. 

Nếu sàn Mt. Gox (Nhật Bản) - từng là sàn lớn nhất thế giới và đã sập mà bây giờ hoàn tiền lại cho người dùng thì rất nhiều người Việt sẽ có lại được hàng chục nghìn tỷ USD. Thời đó, công ty Mai Hoàng – chuyên bán card đồ họa – đã đào rất nhiều bitcoin từ năm 2011 - 2012. 

Cho nên, điều mà chúng tôi mong chờ nhất từ câu chuyện pháp lý là người Việt Nam có rất nhiều tài sản mã hoá. Nếu được chính thống hóa, tài sản mã hóa sẽ trở thành nguồn lực vô cùng lớn.

Trong năm vừa qua, SSI cũng đã kết nối với hầu hết các sàn lớn trên thế giới như Binance, OKX, Bybit, BingX… và các quỹ đầu tư hàng đầu như VanEck. Tất cả đều chỉ chờ đợi một khung pháp lý rõ ràng từ Việt Nam để có thể liên kết với SSI, thành lập các quỹ, công ty, và từ đó đẩy mạnh đầu tư vào thị trường tài sản mã hóa, đưa dòng vốn quốc tế về Việt Nam.

SSI đang rất kỳ vọng rằng trong thời gian tới, hệ thống pháp luật  từ Luật Công nghiệp công nghệ số, cho đến các nghị quyết liên quan của Ủy ban Chứng khoán sẽ được ban hành sớm.

Dự thảo Nghị quyết v/v Triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hoá tại Việt Nam có đặt ra quy định về “Điều kiện cấp Giấy phép cung cấp dịch vụ tổ chức thị trường giao dịch TSMH”. Theo ông/bà, tại sao phải yêu cầu về vốn điều lệ thực góp tối thiểu của tổ chức được cấp phép vận hành sàn TSMH là 10.000 tỷ (cao hơn cả ngành ngân hàng, bảo hiểm, hàng không), đồng thời quy định 35% vốn điều lệ phải do ít nhất 02 tổ chức là NHTM, CTCK, CT Quản lý quỹ, công ty bảo hiểm, công ty công nghệ. 

Dự thảo quy định này sẽ tạo lợi thế lớn cho các công ty chứng khoán trong hệ sinh thái các ngân hàng trong cuộc đua giành giấy phép?

Bà Đoàn Mai Hạnh: Thứ nhất, tôi xin khẳng định rằng với những động thái của cơ quan quản lý gần đây trong việc xây dựng “công nghệ số”, hay Bộ Tài chính đang xây dựng Nghị quyết ban hành về tài sản mã hóa, là những động thái rất mở và rất chủ động của cơ quan quản lý trong việc thừa nhận tài sản mã hóa là một loại tài sản. 

Với việc thừa nhận này, tôi cho rằng nó sẽ mở ra cơ hội cho tất cả các đối tượng tham gia vào thị trường này. Bao gồm cả tổ chức cung cấp dịch vụ hay các doanh nghiệp có cơ hội huy động vốn thông qua một kênh mới, hay nhà đầu tư có một kênh để đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình. Đó là điều đầu tiên cần khẳng định.

Thứ hai, xét về mặt quan điểm về các yêu cầu trong nội dung dự thảo Nghị quyết về thí điểm sàn giao dịch tài sản mã hoá, tôi cho rằng tài sản mã hoá là một lĩnh vực rất mới, tiềm ẩn rất nhiều rủi ro như rủi ro câu chuyện liên quan đến định giá, liên quan đến tội phạm dữ liệu, an ninh mạng, v.v. Do đó, việc cần thiết đưa ra những yêu cầu rất chặt chẽ, rất thận trọng trong việc tổ chức tham gia cung cấp dịch vụ là rất phù hợp, nhất là trong giai đoạn Việt Nam mới bắt đầu "thử nghiệm" (pilot). 

Điều này không những bảo vệ những bên tổ chức tham gia thị trường mà còn bảo vệ chính nhà đầu tư.

Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng đối với các ngành như ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty quản lý quỹ hay công ty công nghệ, khi được nêu tên trong dự thảo Nghị quyết nói trên, thì đây chính là một cơ hội. Và dường như là họ đang có lợi thế hơn so với các ngành khác để tham gia vào thị trường mới này. 

 Bà Đoàn Mai Hạnh - Giám đốc cao cấp Kinh doanh và tự doanh thị trường tài chính TCBS. (Ảnh: BTC).

Tôi cũng xin nói thêm, với ngân hàng, vì sao họ cần tham gia vào lĩnh vực này? Bởi vì đây là những tổ chức có tiềm lực tài chính rất mạnh, họ có thể "chống lưng" (back up) cho những trường hợp rủi ro về thanh khoản hay những sự cố như chúng ta biết vừa rồi đã xảy ra. 

Ngân hàng cũng có cơ chế về KYC (Know Your Customer) hay phòng chống rửa tiền rất khắt khe và đã vận hành nhiều năm rồi và cũng là tổ chức có dày dạn kinh nghiệm trong việc quản lý rủi ro về tài chính. Đó là đối tượng đầu tiên nên tham gia vào thị trường này.

Thứ hai là đối với các công ty chứng khoán hay công ty quản lý quỹ, đây là những đơn vị đã quen với việc xử lý các giao dịch, khớp lệnh hay quản lý tài sản cho khách hàng. Cho nên, đây là những đối tượng sẽ cung cấp được những kinh nghiệm cần thiết cho việc vận hành thị trường này.

Ngoài ra, công ty công nghệ thì rất dễ hiểu, bởi vì đây là một lĩnh vực mà khi nhắc đến tài sản mã hóa, người ta nhắc đến nền tảng công nghệ blockchain. Cho nên cần có những doanh nghiệp có lợi thế và hiểu biết về công nghệ cao. 

Còn công ty bảo hiểm, họ cũng có thể chia sẻ hoặc cung cấp thêm những giải pháp bảo hiểm cho nhà đầu tư phòng ngừa những rủi ro, mất mát. 

Đó là quan điểm cá nhân của tôi, tôi cho rằng những yêu cầu này rất phù hợp.

Tôi nghĩ rằng đối với các doanh nghiệp thuộc năm lĩnh vực này, họ đang có những lợi thế nhất định. Tuy nhiên, đây cũng là những thách thức khi bất kỳ một doanh nghiệp nào có ý định muốn tham gia vào thị trường và trở thành một trong những nhà cung cấp dịch vụ. 

Bởi vì, thứ nhất, con số vốn 10.000 tỷ đồng không phải là con số nhỏ. Cho nên, bài toán thứ nhất là họ có đủ sức để huy động được nguồn vốn, mà đây là nguồn vốn thực góp, đã là một yêu cầu rất khó rồi. 

Và sau khi góp vốn vào, họ phải có cách thức nào để quản lý được con số vốn này, vừa đảm bảo câu chuyện về thanh khoản, phòng chống rủi ro, mà họ phải đạt được những yêu cầu về mặt hiệu quả kinh tế. 

Bởi vì việc đầu tư rất nhiều vào một lĩnh vực mà hiệu quả mang lại cũng chưa có gì chắc chắn, trong khi các yêu cầu liên quan đến việc cổ đông góp vốn họ cũng có những đòi hỏi (requirement) nhất định. Thì đó là một bài toán quản lý vốn rất phức tạp.

Thứ hai, tôi nghĩ rằng điều kiện về việc trên 35% cổ đông phải thuộc hai trong năm ngành nghề vừa nêu cũng gây ra một áp lực lớn, nghĩa là cho việc đồng thuận hay thống nhất giữa các nhóm cổ đông với nhau, đặc biệt nếu giữa các nhóm cổ đông này có sự khác biệt liên quan đến mục tiêu kinh doanh hay quan điểm quản trị điều hành doanh nghiệp trong quá trình vận hành. 

Tôi nghĩ rằng hai điểm này đang liên quan trực tiếp đến những nội dung mà dự thảo đề ra.

Ngoài ra, thêm một ý nữa, vì tài sản mã hóa này là một hoạt động "xuyên biên giới" (cross-border), nó là giao dịch 24/7 và cũng có rất nhiều yếu tố rủi ro tiềm tàng như về tấn công mạng hay về rửa tiền. Cho nên, yêu cầu là khi một đơn vị muốn tham gia thị trường này, họ phải đầu tư rất mạnh vào cả nguồn vốn, cả việc thiết kế hệ thống bảo mật an toàn như thế nào. Điều này sẽ đòi hỏi một thời gian triển khai không ngắn. Cho nên, bất kỳ doanh nghiệp nào trước khi muốn tham gia đều phải cân nhắc rất kỹ lưỡng bài toán đầu tư.

Ông Tô Trần Hoà: Tôi xin làm rõ thêm nội dung vừa được nêu về Dự thảo triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hoá tại Việt Nam. Thứ nhất, quy định 10.000 tỷ đồng và 35% là đúng nhưng chưa đủ. Ngoài việc 10.000 tỷ đồng vốn góp và 35% vốn từ hai trong 5 loại hình tổ chức (ngân hàng CTCK, CT Quản lý quỹ, công ty bảo hiểm, công ty công nghệ), thì 65% vốn góp của 10.000 tỷ đồng đó phải từ các tổ chức, chứ không phải cá nhân. Đó là một điểm rất quan trọng.

Đối với chúng tôi, khi xây dựng chính sách, chúng tôi không chủ trương ưu tiên cho bất cứ loại hình doanh nghiệp nào. Chúng tôi đưa ra quy định 35% và từ 5 đối tượng nói trên là bởi vì đây là thị trường mới, doanh nghiệp cũng mới, nên chúng ta cần có những nền tảng cơ bản mà 5 doanh nghiệp kia đang có sẵn và hoàn toàn có thể hỗ trợ cho loại hình doanh nghiệp này để có thể đi vào vận hành ngay, thị trường có thể vận hành ngay, không phải chờ việc đầu tư, thử nghiệm (test) hay làm các thủ tục khác, rút ngắn thời gian xây dựng và phát triển hoạt động của doanh nghiệp ngay lập tức khi Nghị quyết được thông qua.

Về câu chuyện vì sao lại là 10.000 tỷ đồng, chúng ta phải quay trở lại khái niệm thế nào là tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa, hay ở nước ngoài gọi là VASP (Virtual Asset Service Provider). 

Về mặt hoạt động, VASP hoạt động như một sở giao dịch chứng khoán, như một công ty lưu ký, như một công ty chứng khoán. Họ có tất cả các tính năng đó: vừa tổ chức thị trường giao dịch, vừa tổ chức thanh toán, lưu ký tài sản, vừa tổ chức thị trường phát hành cho doanh nghiệp phát hành, v.v. Tất cả các hoạt động nghiệp vụ đó đều giống như của sở giao dịch, của công ty lưu ký và của công ty chứng khoán.

Bây giờ chúng ta nhìn lại, hiện nay, đối chiếu sang thị trường chứng khoán chẳng hạn, tổng số vốn mà các sở giao dịch Việt Nam đang nắm giữ – của cả hai sở – đâu đó khoảng 7.000 tỷ và của bên Tổng công ty Lưu ký Chứng khoán hiện nay là 3.000 tỷ đồng. 

Như vậy, tổng số vốn mà các đơn vị đó đang cần để vận hành một thị trường đầy đủ, hoàn chỉnh là khoảng 7.000 tỷ đồng.

Chúng ta quay lại với công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán hiện nay có vốn điều lệ cao nhất là 22.000 tỷ đồng, hơn 2.000 tỷ đồng. Top 10 công ty chứng khoán thì hầu như vốn điều lệ đều trên 1.000 tỷ đồng. Như vậy với một hoạt động của doanh nghiệp bao gồm tất cả các hoạt động của thị trường như thế, nếu chúng ta chỉ để ở mức như một số nơi đề xuất là 1.000 tỷ, 500 tỷ hay 300 tỷ đồng, tôi cho rằng không đủ để vận hành một thị trường, một sàn giao dịch kiểu như vậy. 

Ý thứ hai, tại sao lại là 10.000 tỷ đồng, một con số rất lớn như thế?

Chúng tôi cũng đã nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế. Đối với thị trường quốc tế, họ có đưa ra một số quy định. Đối với tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa, họ phải có "bằng chứng dự trữ" (Proof of Reserve), tức là họ phải công khai khoản dự trữ của họ về tài sản mã hóa, để trong trường hợp xảy ra mất mát, thất thoát thì họ có khả năng bù đắp, hoàn trả cho nhà đầu tư.

Bên cạnh đó, một số nước hiện nay đang quy định thêm về vấn đề mua bảo hiểm. Các tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa phải mua bảo hiểm. Chúng ta quay trở lại với thị trường Việt Nam, nếu để quy định là họ phải mua bảo hiểm chẳng hạn, thì hiện nay, theo Luật Bảo hiểm, chúng ta không có doanh nghiệp bảo hiểm nào có khả năng cung cấp việc đó và sẵn sàng bán bảo hiểm cho những loại hình doanh nghiệp này. 

Thứ hai, về vấn đề "bằng chứng dự trữ" (Proof of Reserve). Đối với thị trường của chúng ta, nếu ngay lập tức yêu cầu họ phải có "bằng chứng dự trữ" thì đó cũng là một câu chuyện gần như trói buộc doanh nghiệp. Tức là doanh nghiệp phải chứng minh một mức nào đó ngay khi thành lập, là họ phải mua, họ phải mua tài sản sẵn. 

Ở đây, chúng tôi không quy định vấn đề đó mà để ngỏ cho doanh nghiệp, theo cơ chế là cho họ một nghiệp vụ: nghiệp vụ tự doanh. Tức là với 10.000 tỷ đồng đó, không có nghĩa là vốn chết ở đó, mà họ hoàn toàn có thể sử dụng cho các mục đích khác, ví dụ như đầu tư cơ sở hạ tầng, hay mua tài sản để phục vụ vấn đề tự doanh, tạo lập thị trường (market maker). 

Đó là lý do vì sao chúng ta đưa ra mức 10.000 tỷ đồng và tôi cho rằng mức 10.000 tỷ đồng này là hợp lý.

Còn thực tế, báo cáo quý vị, lúc đầu, một số nơi còn đề xuất chúng tôi là tận 20.000 tỷ đồng. Nhưng do đây là giai đoạn thí điểm nên chúng tôi cho rằng 10.000 tỷ đồng là mức phù hợp với năng lực của doanh nghiệp hiện nay.  

Là một trong các tổ chức được đánh giá là có tiềm năng để tham gia thị trường giao dịch tài sản mã hóa, công ty chứng khoán đã chuẩn bị gì cho sandbox?

CEO SSI Digital Mai Huy Tuần: Chúng tôi đã tham gia sâu vào thị trường, chuẩn bị các nguồn lực và đội ngũ, đang chờ các thông tin từ dự thảo luật, do chưa có thông tin chính thức nên doanh nghiệp đang chuẩn bị dần.

Chúng tôi chuẩn bị 200 nhân sự chuyên biệt, chuẩn bị các cơ sở hạ tầng, phần mềm, kết nối và học tập với đối tác nước ngoài, đơn vị lưu ký…

Công ty rất sẵn sàng, chỉ cần Chính phủ có các quy định pháp lý cụ thể thì doanh nghiệp sẽ bám theo khung sườn đấy để tuân thủ tất các quy định đề ra, chỉ chuẩn bị mọi thứ trước và chờ đợi khung pháp lý.

Tất cả sàn tập trung hay phi tập trung thì bên mình đã liên hệ học tập, cũng như các đơn vị bảo mật, các sở giao dịch quốc tế, đang cố gắng chuẩn bị cao nhất.  

Bà Đoàn Mai Hạnh: Về tài sản mã hóa thì rất may TCBS đã triển khai công nghệ blockchain từ 2022 và ứng dụng vào các hoạt động kinh doanh. Khi pháp lý hoàn thiện thì chúng tôi sẽ đi rất nhanh, mảng kinh doanh này rất vượt trội khi pháp lý hoàn thiện thì sân chơi

Chúng tôi ưu tiên phát triển cộng đồng nhà đầu tư, bản thân họ phải có hiểu biết về kênh đầu tư. Chúng tôi rất quan tâm câu chuyện đào tạo, trong quá trình chuẩn bị thì đang triển khai đào tạo cho người dùng, tổng hợp các tin tức từ kênh uy tín cho nhà đầu tư.

TCBS có tạo trợ lý thông minh để cung cấp kiến thức cơ bản cho tài sản mã hóa, trợ lý AI cũng giúp giải đáp theo thời gian thực.

Về bảo mật, việc tổ chức không chỉ là tạo ra cái chợ mua bán, cái chúng tôi đặt trọng tâm lớn là lưu trữ tài sản cho nhà đầu tư bởi nó ảnh hưởng rất lớn, nếu so với tổng giá trị tài sản rất lớn của nhà đầu tư. Nêu các con số tài sản này chính xác thì việc lưu trữ là vấn đề ưu tiên, sống còn. Chúng tôi đặt trọng tâm bảo mật cao nhất, tham khảo chuyên gia an toàn mạng để đạt bảo mật cao nhất.

Về sandbox, chúng tôi nhận được nhiều lời mời trao đổi vấn đề liên quan, chúng tôi có những hợp tác bước đầu để tận dụng công nghệ tiên tiến như lưu trữ đa chữ ký, vận dụng hệ thống công nghệ đang có để hình thành cơ chế lưu trữ cao nhất.

Ông Phan Vũ Tuấn: Khung pháp lý thì xoay xung quanh 3 thứ: thứ nhất cơ chế về bảo vệ tài sản, thứ hai là bảo vệ thông tin nhà đầu tư và cuối cùng là bảo vệ phần pháp lý về chuyển tài sản. Nhà đầu tư rất quan tâm 3 vấn đề này nếu muốn đến Việt Nam.

Về phía các công ty Việt Nam, nếu họ mong muốn trở thành người chơi trong cuộc chiến này, thì 3 yếu tố trên cũng quan trọng nhất.

Phiên 3 được tiếp tục với hoạt động giao lưu sôi nổi giữa diễn giả với nhà đầu tư, khách mời. 

Xét về mặt công nghệ thì thị trường tài sản số vận hành trên nền tảng blockchain, không biên giới và không bị kiểm soát bởi bất kỳ tổ chức hay một quốc gia nào. Việc Việt Nam bắt buộc phải chuyển tài sản số đến Việt Nam là không phù hợp với bản chất phi tập trung của thị trường này. Theo anh Hòa thì Việt Nam sẽ quản lý vấn đề này như thế nào hay có những giải pháp công nghệ nào có thể kiểm soát được vấn đề này?

Ông Tô Trần Hoà: Tôi nghĩ chắc là chúng ta đang có một sự hiểu lầm ở đây. Không biết khái niệm chuyển tài sản mã hóa về Việt Nam xuất hiện ở đâu, nhưng với tôi trong dự thảo nghị quyết thì chúng tôi không quy định như thế.

Chúng tôi quy định là nhà đầu tư phải thực hiện lưu ký tài sản mã hóa tại tổ chức cung cấp dịch vụ của Việt Nam được cấp phép. Còn khái niệm mà bạn vừa đề cập đến thì là tôi cho rằng đấy là một khái niệm hoàn toàn sai và không đúng về mặt bản chất của thị trường, không đúng về mặt bản chất của công nghệ.

Vì tài sản mã hóa vốn dĩ đã nằm ở trên chuỗi blockchain rồi và không có chuyện nhà đầu tư chuyển về như chúng ta đang hình dung là chuyển vật lý, hay chuyển chứng khoán từ chỗ này sang chỗ kia. Đây chắc là có sự hiểu nhầm.

Tôi đoán là có thể là do một số các văn bản quy phạm pháp luật đang được dự thảo có hỏi ý kiến công chúng đầu tư thì trong đó có có thể khiến nhầm ý tứ của dự thảo về tài sản mã hóa.Tôi khẳng định rằng không có khái niệm nhà đầu tư chuyển tài sản mã hóa về lưu ký mà chỉ là nhà đầu tư thực hiện lưu ký tài sản mã hóa tại tổ chức cung cấp dịch vụ, còn hoạt động lưu ký như thế nào thì sẽ được quy định trong quy trình lưu ký do tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa quy định và chúng tôi sẽ xem xét rất kỹ quy trình đấy một cách cụ thể và chi tiết.

Tác động việc thành lập trung tâm tài chính tới thị trường vốn của Việt Nam trong ngắn hạn và trung hạn?

Ông Lê Hoài Anh, Giám đốc điều hành Quỹ Affinity Equity Partners: Trước hết có thể nói rằng đây là một bước đi rất chiến lược và lâu dài của Việt Nam. Thế còn bao giờ nó trở thành hiện thực và như mong muốn của mọi người thì chắc phải có thời gian. Thực tế khi tham gia vào trong quá trình chuẩn bị đề án cũng các cái khung pháp lý để mà phát triển các cái thị trường trước đến nay ấy thì mình thấy rằng ít nhất phải mất khoảng 5 đến 10 năm.

Ví dụ như cái mình tham gia đầu tiên là luật BOT năm 1994 mới đưa ra nhưng phải đến 2000 mới có, tức gần 10 năm sau. Đối với trái phiếu quốc tế thì mình tham gia làm thì cũng mất khoảng 6 đến 7 năm thì mới ra được cái phương án phát hành trái phiếu quốc tế lần đầu tiên của chính phủ Việt Nam năm 2006, dù chuẩn bị từ năm 1996.

Thứ ba là thị trường chứng khoán bắt đầu tham gia cái việc xây dựng hệ thống thị trường chứng khoán cơ sở thì mất khoảng 7 đến 8 năm mới ra được. Hoặc là phương án của xây dựng của SCIC thì theo cái mô hình của Nasdaq thì cũng mất khoảng đến 7 năm để mới ra được một cái đề án để mà phát triển được.

 Ông Lê Hoài Anh, Giám đốc điều hành Quỹ Affinity Equity Partners. (Ảnh: BTC).

Tất cả những cái mà mình nói đến, tất cả quyết tâm chính trị rất là lớn và đấy là cái hướng đi rất đúng đắn, thế nhưng phải có thời gian thì mới đạt được.

Khi làm trung tâm tài chính quốc tế phải cân nhắc một số điểm là thị trường Việt Nam đã chín muồi để có trung tâm thị trường quốc tế như là mong đợi chưa?

Thứ nhất, mọi người đều biết rằng là phải có tài khoản vốn phải là mở. Tài khoản vốn mở có nghĩa là tiền vào, tiền ra rất là tự do. 

Để mà có cái đấy thì cái dự trữ ngoại tệ của Việt Nam cũng phải là tương đối là phải là tốt. Ở các nước ví dụ như là ở Singapore chẳng hạn thì thị trường dự trữ ngoại tệ khoảng 400 tỷ USD, ở Thụy Sĩ khoảng 900 tỷ USD hay Dubai có thể là cũng khoảng vài trăm tỷ đô la.

Để thị trường chứng khoán Việt Nam đạt được cái mức độ mà mở như là một cái thị trường tài chính quốc tế mong đợi thì cũng phải cần khoảng 250 tỷ USD. Hiện bây giờ mọi người đều biết dự trữ ngoại tệ của Việt Nam khoảng 100 tỷ USD, để đạt được 250 tỷ USD chắc là phải có thời gian, do đó cần có lộ trình. 

Thứ hai nữa là phần lớn các cái nước chấp nhận việc có thị trường tài chính quốc tế thì đồng tiền phải là đồng tiền chuyển đổi. Tất cả mọi người đều biết là đồng tiền tại New York, London, Singapore, Hồng Kông (Trung Quốc) hay là ở Thụy Sĩ đều là đồng tiền chuyển đổi cả. Có nghĩa là có thể mang cái đồng tiền đó ra để mua USD hoặc là từ USD chuyển sang đồng tiền đó trên cái thị trường giao dịch tiền tệ.

Một số nước khác thì sử dụng một cái cơ chế mà đồng tiền được tự do chuyển đổi nhưng nằm trong một khuôn khổ như là Dubai hoặc là các nước Ả Rập Xê Út họ cũng theo cái phương án như thế, nhưng chỉ gói gọn ở trong cái khu vực nhất định thôi.

Vấn đề đầu tiên là vấn đề là có đồng ý để cho mở ra cái tài khoản vốn mở không và đồng tiền dự trữ ngoại tệ có đáp ứng được vấn đề đó hay không? Cái thứ hai nữa là đồng tiền có thể chuyển đổi hay không?

Thì đấy là cái mà dù mình có mong muốn thì cái đó cũng không thể ngay lập tức có thể làm được trong ngày một, ngày hai, bởi vì nó phải có thời gian để mà chuẩn bị. Ví dụ như là để dự trữ ngoại tệ nó tăng lên cái mức độ như thế và chấp nhận cái việc là đồng tiền chuyển đổi hay là thị trường vốn đồng tiền tài khoản vốn mở.

Ngoài ra thì có những điều kiện khác ví dụ như là luật thì hầu như các luật mà được áp dụng ở trên các thị trường vốn quốc tế thì đều là common law và còn ngay cả bản thân những cái nước như là Dubai hay là các thứ thì cũng riêng cái khu vực mà làm về cái thị trường về cái trung tâm tài chính quốc tế đấy thì cũng phải dùng luật common law. Trong khi là ở các cái bên ngoài những đó và trong cái lãnh thổ của đất nước của họ thì vẫn sử dụng cái luật mà không phải là common law.

Vấn đề đặt ra là Việt Nam hiện bây giờ mọi người đều biết là luật Việt Nam là theo civil law, thế thì cái vấn đề common law sẽ được áp dụng thế nào? Áp dụng theo cái ở riêng khu vực đó hay là chỉ hay là được áp dụng ở một cái khu vực rộng hơn khu vực đó thì đấy là một cái vấn đề mà chúng ta cũng phải cân nhắc.

Bên cạnh đó thì có rất nhiều thứ mà cần phải đảm bảo để cho một cái thị trường tài chính quốc tế phát triển. tức là cho trung tâm tài chính quốc tế phát triển. 

Ví dụ như là hệ thống cơ sở hạ tầng, năng lượng, data, dữ liệu được lưu giữ rồi đọc, tạo tính bảo mật, rồi là hệ thống về cơ sở hạ tầng cũng như là bệnh viện, trường học cho những  người mà họ đến Việt Nam để họ làm việc ở Việt Nam ở các trung tâm tài chính đó thì như thế nào.

Và vấn đề đặt ra nữa là nếu như là rất nhiều nước là kinh tế rất là phát triển nhưng mà họ cũng không trở thành trung tâm tài chính quốc tế. Ví dụ Hàn Quốc cũng không là trung tâm tài chính quốc tế. Có những nước phát triển như là Thái Lan thì họ cũng không phải là trung tâm tài chính quốc tế. Thế nhưng mà điều đó có nghĩa rằng là để trở thành trung tâm tài chính quốc tế thì nó phải có những cái điều kiện mà không phải là mong muốn ngay lập tức là có thể có được.

Nhưng mà mình nghĩ cái chuyện đó thì việc chuẩn bị ở Việt Nam là rất hoàn toàn là đúng và cần thiết. Thế nhưng mà thì mô hình thì như thế nào thì mình nghĩ là bước đầu tiên có thể là mô hình thử nghiệm và có giới hạn, tức là có thể chọn một cái vị trí có thể như trong đề án đưa ra phương án là thành phố Hồ Chí Minh hoặc là ở Đà Nẵng thì có thể là thử như là sandbox, thử ở những cái vị trí đó trước thì trong trong cái trung tâm đó, tài chính đó mình chọn ra thì mình có thể cho những cái cơ chế như mình nói tức là như là tài khoản vốn mở, tiền đưa vào, tiền rút ra, đồng tiền mang vào thì được chuyển đổi thoải mái rồi là luật áp dụng có thể luật common law thì để thử nghiệm.

Và đồng thời thì sau đó sẽ xemi khả năng mà thực hiện nó như thế nào. Nhưng mà việc đó vẫn phải là dẫn tới cái việc là dự trữ ngoại tệ như thế nào, bởi vì là cái cái tiền đưa vào mà để đầu tư ấy trên một cái trung tâm tài chính quốc tế thì nó không chỉ đơn giản mua cổ phiếu mà họ có thể mua trái phiếu rồi chuyển đổi các thứ thì và margin của nó rất lớn, có thể là một cái khoản đầu tư của nó là một triệu thôi nhưng mà khi mà họ đánh hedging thì mọi người đều biết rằng là cái khả năng margin của nó có thể để cao lên cả 3-4 lần.

Thế thì nếu như là họ có lợi, họ thu được khoản lợi đó thì họ đầu tư 10 triệu USD chẳng hạn, họ lãi khoảng 30 triệu USD, thế thì cái phần mà 20 triệu USD lãi đấy thì cái nguồn tiền ngoại tệ mà cung cấp cho họ để chuyển ra khỏi Việt Nam như thế nào. Thì đấy là mình nghĩ là đó là những vấn đề rất là cân nhắc để làm.

Thì đấy là những điều kiện để cho Việt Nam trở thành trung tâm tài chính quốc tế. Các cơ quan chính phủ cũng sẽ phải cân nhắc xem là khả năng đáp ứng được như thế nào, nhưng theo mình nghĩ thì chắc là sẽ là phương án là thử nghiệm ở một khu vực nào đó và sau đó thì xem là khả năng và thực tế nó là hiệu quả đến đâu. 

Đấy một chiến lược đúng nhưng nó phải có thời gian và nó phải có sự chuẩn bị rất là kỹ càng thì mình hi vọng là để thành trung tâm tài chính quốc tế đúng nghĩa của nó, tức là dòng tiền chuyển về, được giao dịch, được chuyển ra, thu hút được các quỹ đầu tư, các ngân hàng rồi là ngành nguồn lực con người ở các nơi vào Việt Nam làm thì thực tế là bao giờ đạt được thì mình nghĩ nó chắc là phải có thời gian.

Đánh giá như thế nào về con số 9,6 triệu tài chứng khoán và 20 triệu tài khoản bitcoin ở Việt Nam? Thường các nhà đầu tư cá nhân quan tâm tới lợi nhuận chứ không quan tâm tới rủi ro hay việc có được cấp phép hay không. Trong thời gian tới, nếu luật về Công nghiệp công nghệ số được thông qua, thì cơ hội và lợi nhuận trên thị trường sẽ như thế nào?

Ông Phan Đức Trung: Trước giờ, không ít người đã hỏi tôi, thực tế thì Việt Nam hiện có bao nhiêu tài khoản bitcoin? Theo tôi, nếu đếm thực tế thì có khi còn một nửa. Bản chất thì tôi hỏi các ông chung quanh, ai cũng bảo mình có 3 cái địa chỉ ví mà cái địa chỉ ví là có thể dùng bot để tại ra 100 cái.

Thành ra, chúng ta đừng nhìn vào con số và tưởng tượng nó giống như ở kia nó chạy ở đây. Giống như các nhà làm luật ở Việt Nam đang cố gắng vượt qua cảm giác ‘tài sản mã hóa là tài sản mã hóa không phải chứng khoán’.

Trên thị trường mọi người đã thiết kế ra các loại Utility Token hay còn gọi là Toke Tiện Ích, nhưng hầu như chúng đều chết, không chạy được. Đến hôm nay, nhiều người vẫn hỏi thế tài sản mã hóa nó khác Utility Token như thế nào? Tài sản mã hóa nó bao trùm Utility Token.

Tóm lại, tôi chỉ muốn chia sẻ với các bạn 2 điểm. Điểm thứ nhất, với một lớp tài sản mới chúng ta cần kiến thức, thứ hai là độ phủ rủi ro của nó ở đỉnh tháp. Tài sản mã hóa là tài sản rủi ro cao nhất và lợi nhuận kỳ vọng cao nhất. Chứ chúng ta không nên nói là tài sản mã hóa là cái loại tài sản mang lại nhiều lợi nhuận.

Thứ hai là, nếu là nhà đầu tư chuyên nghiệp, tôi cũng chia sẻ ngược lại với bạn, hãy loại bỏ rủi ro và cái còn lại là lợi nhuận. Nếu chúng ta đi tìm cái lợi nhuận, chúng ta sẽ gặp tổ chức đa cấp, những đội nhóm hoạt động theo hình thức Ponzi.

Thứ ba, ở trong tài sản mã hóa chúng ta chỉ nghe các tin vui. Tôi là người từng thử vào và sau một năm tài sản bốc hơi 75%. Tôi đã phải ngồi lại để xem bản chất và ở đây có câu chuyện gì tạo ra kết quả đó. Tôi đã đầu tư vào tài sản khá truyền thống là bitcoin. Mà xin chia sẻ tại thời điểm đấy và sau này, chúng tôi phải vượt qua cảm giác ‘tại sao nó lên và tại sao nó xuống’. 

Tôi vẫn nhớ, lúc rời bỏ ngành ngân hàng thì bitcoin có giá 12 đô, tôi nghĩ đây là một trò vớ vẩn về mặt công nghệ. Khi bitcoin lên 80 đô, tôi nghĩ đây là cơ hội lớn. Khi lên 200 đô thì là lừa đảo khủng khiếp, tôi cần phải trốn khỏi thị trường này. Sau khi nó lên vài nghìn đô thì tôi mới biết bản chất công nghệ.

Lúc nãy tôi có chia sẻ, chúng ta đừng nghĩ tài sản mã hóa là một cơ hội kiếm tiền mà nên nghĩ nó là một lớp tài sản mới. Lớp tài sản này nó là một lớp chúng ta cần quan tâm, cần kiến thức và nó đầy rủi ro; trước khi chúng ta tham gia vào.

Nhưng cái tôi chia sẻ phía trước, khi tham gia một hiệp hội hoặc thúc đẩy công nghệ, thì chúng tôi hứng thú hơn nhiều. Chúng tôi rất hứng thú trong việc tham gia xây dựng hạ tầng công nghệ - hệ sinh thái blockchain để đổi mới – sáng tạo ngành tài chính.

Còn ngày nay, nếu tôi là một nhà đầu tư tài sản mã hóa chuyên nghiệp, tôi có thể dễ dàng đầu tư trên sàn giao dịch phi tập trung (DEX). Bây giờ, chúng tôi chỉ lo một việc, là không biết Việt Nam chúng ta viết luật ra sẽ làm đến đâu. Nhưng chỉ cần đào tạo một lớp cơ bản, thì chúng ta không bị lừa, đó là điều quan trọng nhất.

Điểm thứ hai là trên thị trường có 820 sàn tài sản bitcoin, chỉ 250 sàn là sàn tập trung. Còn sàn được cấp phép cực kỳ ít. Chúng ta nên nhớ sàn Binance không phải là sàn được cấp phép.

Quay trở lại vấn đề, chúng ta không thấy bất cứ cơ hội gì khi đầu tư vào lớp tài sản mới nếu chúng ta không đi học. Và tôi không hy vọng là bất cứ ai có thể kiếm được tiền từ loại tài sản mới này. Chúng tôi chỉ hy vọng làm sao Uỷ ban chứng khoán có thể thiết kế lớp tài sản mã hóa vài đây là lớp tài sản rất tốt.

Làm sao để mọi người hiểu rằng, đây là một cơ hội để thu hút vốn và từ đây UBCK cũng có những đổi mới về công nghệ - về sản phẩm; thì lúc ấy mới thúc đẩy được nền kinh tế rất nhiều. 

Vietnam Investment Forum 2025: Mid-Year Update do VietnamBiz và Việt Nam Mới phối hợp tổ chức, diễn ra vào ngày 3/6/2025 tại Hà Nội, với mục tiêu kết nối bài học từ nửa đầu năm với xu hướng đầu tư cho chặng đường tiếp theo. 

Diễn đàn được tường thuật trực tiếp trên website vietnambiz.vn, livestream trên các nền tảng Youtube VIF, Fanpage Tin Kinh tế hàng ngày.

 

BBT
QUẢNG CÁO
QUẢNG CÁO