25/11/2025 10:11

Toàn cảnh ngân hàng 9 tháng đầu năm: Tín dụng tăng mạnh hiếm thấy, lãi suất tăng vào cuối năm

Bức tranh ngành ngân hàng sau 2/3 chặng đường của năm 2025 nổi bật với điểm nhấn tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ, chất lượng tài sản cải thiện và lãi suất huy động nhích dần về cuối năm.

Tín dụng mở rộng mạnh mẽ hiếm thấy trong 15 năm qua

Tăng trưởng tín dụng có thể được xem là điểm nhấn nổi bật nhất của ngành ngân hàng trong năm 2025.Tín dụng toàn hệ thống đến cuối tháng 9/2025 tăng gần 14% so với cuối năm 2024, vượt xa mức 9,11% của cùng kỳ và cho thấy khả năng hấp thụ vốn tốt của nền kinh tế. 

Theo số liệu mới nhất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN),tính đến cuối tháng 10, tăng trưởng tín dụng đạt 15,1% so với đầu năm, mức cao nhất trong nhiều năm và sắp chạm mục tiêu đặt ra từ đầu năm (16%). 

Nhà điều hành cũng từng đưa ra dự báo rằng tăng trưởng tín dụng cả năm có thể đạt 19–20%, điều này đánh dấu một giai đoạn mở rộng mạnh mẽ hiếm thấy trong gần 15 năm qua.

Nguồn: WiData.

 Theo các chuyên gia phân tích, việc chỉ sau ba quý đã gần chạm mục tiêu cả năm phản ánh tác động tích cực của môi trường lãi suất thấp, đồng thời thể hiện một phần quyết tâm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% trong năm nay và hai chữ số trong các năm sau.

Theo ghi nhận từ WiGroup về phân nhóm, ở nhóm ngân hàng niêm yết, dư nợ cho vay khách hàng đạt 13,63 triệu tỷ đồng vào cuối tháng 9, tăng 15% so với cuối năm 2024 — mức tăng nhanh nhất kể từ 2018.

Trong khi các ngân hàng tư nhân, đặc biệt là nhóm quy mô lớn (MB, ACB, Techcombank, VPBank), tiếp tục đẩy mạnh tín dụng và chiếm phần lớn động lực tăng trưởng của toàn hệ thống, nhóm quốc doanh lại lựa chọn cách tiếp cận thận trọng hơn.

Trong quý III, các ngân hàng quốc doanh tiếp tục tăng trưởng quanh mức trung bình ngành, cho thấy sự thận trọng trong việc mở rộng quy mô. VPBank dẫn đầu toàn ngành với mức tăng 29,4%, chủ yếu nhờ đẩy mạnh cho vay trong các lĩnh vực công nghiệp, bán lẻ và xây dựng.

Bức tranh tích cực cũng ghi nhận tại Techcombank và MB, với mức tăng lần lượt 21,4% và 19,9% trong quý III. Trái ngược xu hướng này, HDB chỉ đạt mức tăng 10,4% do sự thu hẹp cho vay bất động sản kinh doanh và tín dụng tiêu dùng nhằm giảm thiểu rủi ro khi nợ xấu của HDBank tăng nhanh trong gần đây.

Nguồn: WiData.

Báo cáo của WiGroup cũng chỉ ra điểm đáng chú ý trong 9 tháng đầu năm là sự tăng trưởng nhanh của dư nợ trung và dài hạn khi khu vực này tăng 17,32%, vượt xa mức 12,65% của tín dụng ngắn hạn.

Xu hướng này phản ánh nhu cầu vốn dài hạn gia tăng trong nền kinh tế. Trong khi đó, khả năng hấp thụ vốn của khối doanh nghiệp tiếp tục cho thấy nhiều dư địa, trái ngược với tín dụng cá nhân còn đối mặt với nhiều khó khăn. 

Về tín dụng theo ngành, Bất động sản – Xây dựng và Vận tải kho bãi thu hút dòng vốn mạnh. Ngược lại, tín dụng ngành Công nghiệp tăng ở mức trung bình, còn Bán buôn – Bán lẻ ghi nhận mức mở rộng chậm hơn.

Nợ xấu cải thiện rõ nét sau giai đoạn căng thẳng trái phiếu

Về chất lượng tài sản, tính đến cuối quý III, tổng nợ xấu toàn hệ thống đạt 274.000 tỷ đồng, tăng 2% so với quý trước và 8,1% so với cùng kỳ. Nợ xấu từng tăng mạnh trong giai đoạn chuyển tiếp từ cuối 2024 sang quý I/2025 sau khi thông tư cơ cấu nợ hết hiệu lực, nhưng đã giảm dần qua các quý tiếp theo.

Đến cuối quý III/2025, tỷ lệ nợ xấu ở mức 2,01%, dù vẫn cao hơn mức trung bình 5 năm (khoảng 1,84%), nhưng đã có cải thiện rõ rệt sau giai đoạn căng thẳng liên quan nợ xấu và trái phiếu trong 2 năm trước đó.

Cùng với đó, tỷ lệ bao phủ nợ xấu được nâng cao trong quý III, nhờ quy mô nợ xấu ổn định và dự phòng rủi ro tín dụng tăng 9,9% so với cùng kỳ - tương đương tăng 7,9% so với quý trước

Nguồn: WiData.

Bộ đệm dự phòng toàn ngành ghi nhận tăng nhẹ so với cùng kỳ, nhưng diễn biến này không đồng đều giữa các ngân hàng. Một nửa ngân hàng đã nâng dự phòng, trong khi phần còn lại chưa có thay đổi đáng kể. Vietcombank dẫn đầu với tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 202%, tiếp theo là VietinBank với 176,5%. 

Nguồn: WiData.

Lãi suất huy động nhích nhẹ cuối năm

Theo dữ liệu từ WiGroup, trong quý III, lãi suất huy động của các ngân hàng có xu hướng nhích nhẹ, đặc biệt ở các kỳ hạn 1–3 tháng và 6–9 tháng. Đối với kỳ hạn 3 tháng, nhóm ngân hàng quốc doanh duy trì ở mức 1,88%, nhóm ngân hàng lớn tăng từ 3,15% lên 3,25% và nhóm ngân hàng khác tăng từ 3,53% lên 3,55%.

Ở kỳ hạn 6–9 tháng, nhóm quốc doanh ghi nhận 3,1%, trong khi nhóm ngân hàng lớn tăng nhẹ từ 4,14% cuối tháng 6 lên 4,24% cuối tháng 9, còn nhóm ngân hàng khác giữ ổn định ở 4,79%. 

Nguồn: WiData.

Tỷ lệ LDR toàn ngành đi ngang so với cùng kỳ, ở mức 83,83%. Tổng huy động tăng khoảng 22% so với cùng kỳ, chủ yếu nhờ các kênh ngoài tiền gửi như thị trường liên ngân hàng và phát hành giấy tờ có giá, trong khi dư nợ tiếp tục tăng nhanh 21,65% YoY.

Ở từng phân khúc, nhóm NHTM lớn ghi nhận LDR tăng mạnh trong quý III khi cho vay tăng tốc vượt xa huy động, khiến chênh lệch tăng trưởng giữa hai chỉ tiêu ngày càng nới rộng và tạo áp lực lên thanh khoản.

Ngược lại, nhóm NHTM quốc doanh giữ được sự ổn định của LDR nhờ duy trì tốc độ tăng trưởng huy động và tín dụng tương đồng. Đáng chú ý, nhóm NHTM nhỏ lại giảm nhẹ LDR do tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm lại trong kỳ. 

Nguồn: WiData.

H.T