Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố mức phí 100.000 USD đối với thị thực lao động H-1B. (Ảnh: New York Times).
Vào ngày 19/9, sau chuyến thăm quan trọng đến Vương quốc Anh, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã quay trở lại với chương trình nghị sự trong nước, cụ thể hơn là chính sách kiểm soát người nhập cư.
Tại Phòng Bầu dục, ông đã đặt bút ký sắc lệnh hành pháp nhằm áp khoản phí bổ sung 100.000 USD đối với những người nộp đơn xin thị thực H-1B - một chương trình cho phép lao động nước ngoài có cơ hội làm việc tại Mỹ.
Trước khi sắc lệnh được ký, Bộ trưởng Bộ Thương mại Mỹ Howard Lutnick đã giải thích lý do vì sao Washington áp khoản phí mới đối với loại thị thực mà ông khẳng định “bị lạm dụng nhiều nhất”.
“Ý tưởng chung là các công ty công nghệ lớn hoặc các doanh nghiệp khác sẽ không còn đào tạo lao động nước ngoài nữa. Họ sẽ phải trả cho chính phủ 100.000 USD, sau đó họ còn phải trả lương cho người lao động. Điều này không có lợi về mặt kinh tế [cho bản thân họ].
Vì vậy, nếu các bạn định đào tạo ai đó, bạn sẽ đào tạo một trong những sinh viên mới tốt nghiệp từ một trong những trường đại học tuyệt vời trên khắp đất nước chúng ta”, ông Lutnick cho hay.
Mức phí mới có hiệu lực từ ngày 21/9 và áp dụng đối với các hồ sơ đăng ký mới, theo Cơ quan Di trú và Nhập tịch Mỹ (USCSI). Giới chuyên gia dự đoán mức phí này có thể sẽ phải đối mặt với thách thức pháp lý, tương tự như nhiều chính sách gây tranh cãi khác của ông Trump.
Thị thực H-1B. (Ảnh: Getty Images).
Trong hàng chục năm qua, nền kinh tế Mỹ đã phải vật lộn với tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng lao động có chuyên môn cao, đặc biệt là trong lĩnh vực STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học). Để lấp đầy khoảng trống đó, chương trình thị thực H-1B đã ra đời.
Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật thành lập chương trình H-1B vào năm 1990. Khi Tổng thống George Bush ký ban hành luật, ông nhận định chương trình này “sẽ khuyến khích nhập cư những người có năng lực đặc biệt, chẳng hạn như các nhà khoa học, kỹ sư và nhà giáo dục”.
Nhiều doanh nghiệp Mỹ sử dụng thị thực H-1B để thuê lao động nước ngoài có chuyên môn cao để lấp đầy những vị trí mà lao động Mỹ không thể đảm nhận. Thị thực H-1B có hiệu lực trong ba năm và có thể được gia hạn.
Cần lưu ý, chương trình H-1B cho phép người lao động tạm thời sinh sống và làm việc tại Mỹ, chứ không trở thành thường trú nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp thường bảo lãnh cho người lao động có thị thực H-1B để lấy thẻ xanh, giúp họ có cơ hội trở thành công dân Mỹ.
Quốc hội Mỹ cho phép cấp 65.000 thị thực H-1B mỗi năm cho người lao động có bằng cử nhân hoặc tương đương, và thêm 20.000 thị thực cho người có bằng thạc sĩ trở lên.
Nhu cầu xin thị thực thường vượt quá số lượng thị thực được cấp, vì vậy Mỹ đã xây dựng hệ thống xổ số. Trong năm tài khoá 2025, hơn 470.000 người đã nộp hồ sơ xin thị thực, theo USCSI.
Theo hệ thống hiện tại, người nộp đơn xin thị thực phải trả một khoản phí nhỏ để tham gia chương trình xổ số. Nếu họ được chọn, các khoản phí tiếp theo có thể lên đến vài nghìn USD, tuỳ từng trường hợp.
Như đã đề cập, nhiều doanh nghiệp Mỹ sử dụng thị thực H-1B để tuyển dụng nhân sự chất lượng cao. Song, công nghệ là lĩnh vực có liên hệ mật thiết nhất với chương trình thị thực này.
Trong năm tài khoá 2025 (tính đến tháng 6), Amazon tuyển dụng nhiều lao động có thị thực H-1B nhất - hơn 14.000 người. Microsoft, Meta Platforms, Apple và Google mỗi công ty tuyển dụng hơn 4.000 người.
Trong top 10 doanh nghiệp tuyển dụng nhiều lao động thị thực H-1B nhất còn có ngân hàng lớn nhất nước Mỹ JPMorgan Chase và ông lớn kiểm toán Deloitte Consulting.
Trong khi Quốc hội Mỹ giới hạn số lượng thị thực H-1B được cấp mỗi năm, không có giới hạn nào cho mỗi quốc gia cung cấp lao động. Trong năm tài khoá 2024, đại đa số - tương đương 71% - người nhận thị thực đến từ Ấn Độ.
Trung Quốc là nước hưởng lợi nhiều thứ hai từ chương trình H-1B khi cung cấp gần 47.000 lao động chất lượng cao cho các doanh nghiệp Mỹ, chiếm 12% số thị thực được cấp trong năm tài khoá đó.
Tổng thống Trump chỉ trích rằng H-1B ưu tiên lao động nước ngoài hơn công dân Mỹ và điều đó gây hại cho nền kinh tế số một thế giới.
Tuy nhiên, có nhiều bằng chứng cho thấy động thái nâng phí thị thực của ông Trump sẽ làm suy yếu năng lực đổi mới và cạnh tranh của nền kinh tế bằng cách ngăn cản những người giỏi nhất thế giới đến Mỹ.
Lao động nước ngoài là một mắt xích quan trọng trên thị trường lao động Mỹ, đặc biệt là trong lĩnh vực STEM đòi hỏi kiến thức chuyên môn sâu rộng và phức tạp.
Có thể nói, họ là nhân tố quan trọng trong quá trình đổi mới của nước Mỹ, là cha đẻ cho nhiều ý tưởng và công nghệ tiên tiến giúp tạo việc làm, nâng cao mức sống của các hộ gia đình Mỹ và thúc đẩy nền kinh tế Mỹ nói chung.
Đáng chú ý, chương trình thị thực H-1B là nguồn cung lao động STEM lớn nhất cho Mỹ, đóng góp 90% lượng nhân tài cần thiết, theo Viện Brookings.Từ thời điểm này trở về sau, người viết sẽ tập trung vào lao động STEM.
Theo dữ liệu từ Hội đồng Di trú Mỹ, tính đến năm 2019, người nước ngoài chiếm gần một phần tư (khoảng 23,1%) tổng số lao động STEM trên toàn nước Mỹ. Đây là mức tăng mạnh so với năm 2000, khi chỉ 16,4% lực lượng lao động STEM là người sinh ra ở nước ngoài.
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2019, tổng số lao động STEM tại Mỹ đã tăng vọt 44,5% từ 7,5 triệu lên 10,8 triệu.
Lao động STEM tại Mỹ đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, người Ấn Độ là nhóm lớn nhất, chiếm 28,9% tổng số lao động STEM ngoại quốc tại Mỹ.
Song, dữ liệu vẫn ghi nhận một lượng đáng kể lao động STEM sinh ra ở Trung Quốc (273.000), Mexico (119.000) và Việt Nam (100.000).
Và có một điểm thú vị là không ít nhân tài nước ngoài làm việc tại Mỹ từng theo học các trường đại học hàng đầu ở đây. Ví dụ, hơn 5% đã theo học Stanford, 3,6% học tại MIT và 3,5% tại UC Berkeley.
Chúng ta có thể thấy nhu cầu ngày càng lớn đối với lao động nước ngoài trong mọi ngành nghề STEM ở mọi tiểu bang tại Mỹ.
Theo ước tính của Cục Thống kê Lao động Mỹ, nước này sẽ cần thêm khoảng 1 triệu lao động STEM trong giai đoạn 2023 - 2033. Đáng chú ý, tốc độ tăng trưởng việc làm trong lĩnh vực công nghệ vượt xa lực lượng lao động nói chung.
Tại sao nói lao động STEM nước ngoài đóng vai trò quan trọng cho năng lực đổi mới của nền kinh tế Mỹ? Hãy thử nhìn vào phân tích của nền tảng Revelio Labs dựa trên dữ liệu từ Văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu Mỹ (USPTO).
Revelio Labs nhận thấy sự đóng góp của lao động nước ngoài đã tăng đáng kể trong 10 năm qua. Vào năm 2014, khoảng 34% bằng sáng chế được cấp cho các công ty Mỹ có ít nhất một chuyên gia nước ngoài. Đến năm 2024, tỷ lệ này đã tăng lên 41%.
Phân tích của Revelio Labs cũng phát hiện lao động nước ngoài tại Mỹ có năng suất làm việc cao hơn hẳn các đồng nghiệp sinh ra tại Mỹ. Trung bình, lao động nước ngoài tạo ra nhiều hơn 1,6 bằng sáng chế cho các công ty Mỹ hơn so với những người sinh ra tại Mỹ.
Như nhiều người đã biết, các bằng sáng chế chính là một trong những xương sống của quá trình đổi mới, sáng tạo.
Tập trung vào các ngành có hoạt động cấp bằng sáng chế cao nhất, Revelio Labs nhận thấy ngành công nghệ phụ thuộc nhiều nhất vào các chuyên gia nước ngoài.
Hơn 40% bằng sáng chế cấp cho các công ty trong những ngành như phần mềm, dịch vụ đám mây, thương mại điện tử và sản xuất chất bán dẫn có ít nhất một nhân tài người nước ngoài.
Mỹ có thể mất đi lợi thế cạnh tranh trong những lĩnh vực trọng yếu này nếu họ không còn có thể thu hút các chuyên gia chuyên môn giỏi từ nước ngoài.
Quả thực, không một nền kinh tế nào có thể tiến lên phía trước nếu quá trình đổi mới, sáng tạo đi thụt lùi. Vì vậy, một khi để mất nguồn lao động chất lượng cao từ nước ngoài, nền kinh tế Mỹ có nguy cơ gánh chịu những hậu quả nặng nề và dễ thua sút các đối thủ hàng đầu như Trung Quốc.
Nhà quản lý quỹ Mark Spitznagel dự đoán chỉ số S&P 500 sẽ tăng 20% trước khi thị trường chứng khoán Mỹ đổ sập như cuộc khủng hoảng năm 1929.
Chính sách hạn chế xuất khẩu chip của Mỹ từng gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp Trung Quốc. Nhưng hiện tại Bắc Kinh tin rằng chip do Trung Quốc tự sản xuất đã đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu trong nước.
Chủ tịch Fed Jerome Powell cho biết ông và các đồng nghiệp đã quan sát các điều kiện tài chính nói chung và lưu ý chứng khoán Mỹ đang có định giá cao.
Trong bài phát biểu mới nhất, Chủ tịch Fed Jerome Powell đã một lần nữa nhấn mạnh chính sách tiền tệ đang đối mặt với thách thức lớn khi cả hai đầu của nhiệm vụ kép đều chịu rủi ro.