Phát biểu tại Tọa đàm "Nội địa hóa ngành ô tô với nền kinh tế độc lập, tự chủ" do Cổng TTĐT Chính phủ tổ chức ngày 18/9, các chuyên gia đã chỉ ra rằng dân số của Việt Nam rất lớn, đây là một thị trường rất tiềm năng để phát triển ngành công nghiệp ô tô.
Tuy nhiên, có một thực tế rằng Việt Nam có dân số trên 100 triệu dân nhưng sản lượng sản xuất ô tô lại chưa đến 400.000 xe, tiêu thụ khoảng 580.000 xe năm 2024. Trong khi đó, Thái Lan chỉ hơn 70 triệu dân sản xuất hai triệu xe, tiêu thụ trong nước 1 triệu xe, còn lại để xuất khẩu.
Điều này cho thấy, so với tiềm năng và lợi thế dân số đông, tầng lớp trung lưu đang phát triển nhanh, ngành ô tô vẫn còn khá non trẻ và kém phát triển.
TS. Ngô Nhật Thái – Chuyên gia ô tô. (Ảnh: VGP).
So sánh giữa nền công nghiệp ô tô Việt Nam và Thái Lan, TS. Ngô Nhật Thái – Chuyên gia ô tô cho biết, Thái Lan có 70 triệu dân, một năm họ bán 1 triệu xe trong nước, còn 1 triệu xe xuất khẩu.
Như vậy, sản lượng của họ là 2 triệu xe, trong khi Việt Nam sản lượng chỉ gần 400.000 xe, bằng 1/5 so với họ. Với sản lượng thấp như vậy lại chia ra hàng chục nhãn hiệu khác nhau, chưa kể mỗi nhãn hiệu, ví dụ như Toyota, lại có rất nhiều loại, thì số lượng trên một chủng loại xe lại càng thấp nữa.
"Với lượng sản xuất mỗi mẫu xe thấp như vậy thì khả năng đầu tư sản xuất những linh kiện nội địa hóa là vô cùng khó khăn và giá thành cũng không thể giảm để tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu",
Một hạn chế khác là tỷ lệ cho dòng xe con của Việt Nam hiện quá thấp, đặc biệt là so với các nước lân cận như Thái Lan, Malaysia hay Indonesia.Theo thống kê, Việt Nam mới chỉ đạt tỷ lệ nội địa hoá khoảng 10% đối với dòng xe 5 chỗ ngồi, xe du lịch cỡ nhỏ. Xe chuyên dùng hoặc xe tải, xe buýt khoảng tới 40%.
"Phải thừa nhận một thực tế rằng chúng ta đang đi sau họ", TS. Ngô Nhật Thái – Chuyên gia ô tô cho biết.
Mỗi hãng ô tô toàn cầu như Toyota, Ford… đều có hệ thống sản xuất riêng. Hệ thống của họ nằm trong hệ thống toàn cầu, gọi là các hệ thống OEM, có các nhà sản xuất cung cấp linh kiện cho họ và họ đã có từ trước rồi, từ khi chưa vào Việt Nam.
"Khi họ vào Việt Nam, làm thế nào để các doanh nghiệp của chúng ta tham gia được hệ thống OEM ấy là vô cùng khó. Nếu như không có một chính sách để các nhà sản xuất phải đưa đối tác của họ trong hệ thống cung cấp của họ tham gia ở Việt Nam thì chúng ta sẽ không thể tạo dựng được ngành công nghiệp ô tô của chúng ta với kỳ vọng là tăng tỷ lệ nội địa hóa", ông Thái cho hay.
Còn theo TS. Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương, Bộ Công Thương, chúng ta đã có hơn 30 năm xúc tiến đầu tư phát triển ngành ô tô. Bên cạnh những sản phẩm ô tô được sản xuất lắp ráp trong nước đã có những ô tô mang thương hiệu Việt.
Trong khoảng hơn 30 năm qua, từ khi thu hút những nhà đầu tư nước ngoài đầu tiên về ô tô thì Việt Nam có những cơ chế chính sách thúc đẩy sự đầu tư nước ngoài cũng như hỗ trợ để làm sao nội địa hóa ngành công nghiệp ô tô.
Rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài khi cam kết đầu tư vào Việt Nam đều có cam kết về hai mục tiêu Việt Nam quan tâm. Một là nội địa hóa, hai là chuyển giao công nghệ. Song cho đến thời điểm này, những cam kết này chưa đạt được hoặc là đạt được tỷ lệ không đáng kể, ông Hội cho hay.
TS. Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương, Bộ Công Thương. (Ảnh: VGP).
Về chính sách, Việt Nam đã có rất nhiều ưu đãi về đất đai, vốn tín dụng, thuế và các ưu đãi về tài chính đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư sản xuất lắp ráp ô tô tại Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam áp thuế nhập khẩu đối ô tô nguyên chiếc để khuyến khích sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, nhập khẩu vẫn rất lớn. Năm 2024, số lượng xe nhập khẩu lên đến 172.000 ô tô các loại. Đây là một con số rất lớn so với các nước, đặc biệt là Thái Lan.
Về cơ chế chính sách, chúng ta cũng đã ban hành rất nhiều cơ chế chính sách. Chính phủ đã có Nghị định số 111/2015 về phát triển công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là mới được hoàn thiện sửa đổi bổ sung bằng Nghị định số 205/2025 của Chính phủ.
Trong 10 năm qua, cơ chế chính sách cũng đã đủ mạnh. Trong đó, rất nhiều lĩnh vực về công nghiệp hỗ trợ ngành công nghiệp ô tô, kể cả vấn đề khung sườn, vỏ, xăm, lốp, truyền động... trong Nghị định số 205/2025 của Chính phủ vừa sửa đổi, bổ sung đều đã có.
Thứ hai, chương trình khuyến công quốc gia cũng đã tập trung hỗ trợ các ngành công nghiệp, kể cả ngành công nghiệp nghiên cứu chế tạo hoặc các ngành công nghiệp liên quan đến bao bì như nhãn mác, kiểu dáng công nghiệp.
Về các chương trình xúc tiến thương mại, đặc biệt nhất phải kể đến là Việt Nam có Chương trình thương hiệu quốc gia, đã góp phần rất nhiều xây dựng được những thương hiệu xe ô tô của Việt Nam.
Tuy nhiên, thực sự những cơ chế chính sách là chưa đủ, chưa mạnh, chưa đủ thiết thực để thúc đẩy nội địa hóa ngành công nghiệp ô tô, ông Hội nhận định.
GS TS. Hoàng Văn Cường, Đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng giáo sư Nhà nước. (Ảnh: VGP).
Đồng quan điểm, GS TS. Hoàng Văn Cường, Đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng giáo sư Nhà nước cũng đánh giá, Việt Nam đã có chính sách bảo hộ sản xuất ô tô trong nước nhưng vẫn chưa đạt được mục tiêu mong muốn là nội địa hóa.
"Có lẽ chủ trương chúng ta về nội địa hóa rất đúng, nhưng những công cụ để thúc đẩy nội địa hóa chưa đủ. Tôi cho rằng chúng ta mới chỉ quan tâm đến yếu tố thuế, ưu đãi thuế, bảo hộ về thuế thì chưa đủ", GS. Cường cho hay.
Theo ông cần có điều kiện ràng buộc về tiến độ nội địa hóa là bao nhiêu thời gian, đến khi nào phải đạt được tỷ lệ nội địa hóa theo vật kế, giá trị, lộ trình. Nếu đưa ra những ràng buộc như thế thì khi ấy buộc các nhà sản xuất phải tính toán xem có đặt chân vào một thị trường mà chưa được lớn hay không?
"Tôi cho rằng thị trường ô tô của chúng ta trong 30 năm qua, nhất là thị trường ô tô nhỏ, ô tô con cũng phát triển, tăng trưởng nhanh nhưng quy mô chưa lớn. Nhưng lại có rất nhiều nhà đầu tư tham gia vào, như vậy chia nhỏ thị phần ra. Chia nhỏ thị phần như thế rõ ràng rất khó để có thể tập trung vào sản xuất từng linh kiện để nội địa hóa", GS. Cường nói.
Như Trung Quốc, họ yêu cầu ràng buộc về chuyển giao công nghệ khá là chặt chẽ, gần như là điều kiện bắt buộc khi đầu tư. Vì vậy, quá trình chuyển đổi, nội địa hóa của họ rất nhanh.
Sự tham gia của các doanh nghiệp trong nước vào sản xuất tăng, đòi hỏi phải có vai trò của doanh nghiệp trong nước. Khi ấy doanh nghiệp trong nước mới đứng ra để đảm nhận được các khâu, các quá trình nhận công nghệ về và mới chuyển thành sản phẩm của mình. Đấy cũng là vấn đề chúng ta cần quan tâm trong chính sách phát triển ô tô, vị chuyên gia này nhấn mạnh.
Trong 8 tháng đầu năm, Việt Nam đã đón gần 14 triệu lượt khách quốc tế, đạt hơn một nửa mục tiêu. Tuy vậy, để cán mốc 25 triệu khách quốc tế cả năm, ngành du lịch phải bước vào chặng đua nước rút đầy áp lực, thu hút bình quân 2,75 triệu khách mỗi tháng trong 4 tháng còn lại.
Theo các chuyên gia, việc thị phần trong nước vốn đã nhỏ lại có tới hàng chục nhãn hiệu khác nhau khiến tỷ lệ nội địa hoá ngành ô tô Việt Nam khó cải thiện. Để tháo gỡ khó khăn này, cần có cơ chế buộc các hãng hợp tác, dùng chung linh kiện, đồng thời dịch chuyển dần chuỗi cung ứng về sản xuất trong nước.
Quyết định số 34 về Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước đã quy định rõ các mức hỗ trợ người lao động và thân nhân của người lao động gặp rủi ro khi đi làm việc tại nước ngoài theo hợp đồng.
Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa đề nghị giữ nguyên thuế suất 5% với lãi vay của nhà đầu tư nước ngoài, thay vì nâng lên 10% như đề xuất, nhằm tránh ảnh hưởng đến môi trường đầu tư và sức hút FDI.